Kể từ khi ra đời, tiêm kích thế hệ năm Lockheed Martin F-22 đã vượt qua mọi đối thủ cạnh tranh trên thế giới. Nhờ sự kết hợp giữa khả năng tàng hình, bay hành trình siêu âm, cơ động tốt và phản ứng nhanh dựa vào hệ thống cảm biến tinh vi, Raptor vẫn là một trong những nền tảng làm nên sức mạnh của Không quân Mỹ (USAF) đồng thời khiến đối thủ cảm thấy lo sợ nhất.
Tuy nhiên, có một điều mà tiêm kích tàng hình chiếm ưu thế trên không tốt nhất thế giới không thể làm được: hoạt động từ tàu sân bay.
Chiếc tiêm kích chiến thuật 2 động cơ, 1 chỗ ngồi này được đưa vào phục vụ trong USAF từ năm 2005, sau một quá trình sản xuất lâu dài và tốn kém. Là sản phẩm từ chương trình Máy bay chiến đấu chiến thuật tiên tiến của Không quân Mỹ, Raptor được thiết kế để áp đảo các tiêm kích hàng đầu của Liên Xô bao gồm Sukhoi Su-27 và Mikoyan MiG-29.
Vào thời điểm cuối của Chiến tranh Lạnh, USAF nhận thấy rằng những khả năng hiện tại của họ có thể không còn đáp ứng yêu cầu trong tương lai gần, nếu thiếu một máy bay chiến đấu ưu việt hơn.
Những ưu thế vượt trội của F-22 Raptor bao gồm diện tích phản xạ radar (RCS) nhỏ, cho phép máy bay không bị phát hiện. Trên thực tế, RCS của F-22 khó quan sát hơn khoảng 5 đến 10 lần so với F-35.
Ngoài ra, Raptor được trang bị động cơ phản lực cánh quạt F119 có khả năng thay đổi vector lực đẩy hai chiều, mang lại cho phi công lợi thế đáng kể trong các trận không chiến. Khung thân lớn của F-22 cung cấp tới 3 khoang vũ khí bên trong.
Tiềm năng ghê gớm của Raptor đã thuyết phục Quốc hội Mỹ gây áp lực buộc Hải quân Hoa Kỳ (USN) xem xét áp dụng phiên bản hạm tàu theo chương trình Máy bay chiến đấu chiến thuật tiên tiến của hải quân (NATF).
Trong khi đó, USN coi NATF là một giải pháp thay thế có chi phí thấp hơn để phát triển chiến đấu cơ trên tàu sân bay của riêng họ. USAF cũng đồng ý đánh giá một phiên bản sửa đổi của oanh tạc cơ tàng hình trên hạm, được phát triển theo chương trình Máy bay Chiến thuật Tiên tiến (ATA) của Hải quân Mỹ, để thay thế chiếc F-111 đã già cỗi của chính họ.
Cách tiếp cận hợp tác này sẽ tạo ra một chủng loại máy bay chiến đấu chung giữa Hải quân, Thủy quân lục chiến và Không quân Hoa Kỳ, tương tự chương trình Máy bay chiến đấu tiến công kết hợp F-35 Lightning II.
Tiêm kích tàng hình F-22 Raptor chưa thể có phiên bản máy bay ném bom hạm tàu FB-22. |
Tuy nhiên, đến năm 1991, kế hoạch chế tạo FB-22 tương thích với tàu sân bay đã bị hủy bỏ chủ yếu vì lý do kỹ thuật và ngân sách. Việc biến Raptor thành máy bay ném bom sẽ tác động đáng kể đến tải trọng và phạm vi hoạt động của khung máy bay.
Nhiều chuyên gia quân sự cho rằng bán kính chiến đấu 600 dặm của Raptor “chưa đủ xa để một máy bay ném bom thâm nhập sâu mà không phụ thuộc vào máy bay tiếp dầu trong việc tiến vào không phận thù địch”.
Ngoài ra, Raptor chỉ có thể mang 4 quả bom đường kính nhỏ trong khoang vũ khí của nó. Bất kỳ loại đạn nào được đặt trên cánh sẽ làm giảm khả năng tàng hình của máy bay.
Các kỹ sư cũng vật lộn với cách kết hợp thiết kế "cánh cụp", tương tự F-14 Tomcat và FB-22. Bảo trì loại kết cấu này cực kỳ tốn kém và ảnh hưởng đến khả năng tàng hình của chiến đấu cơ.
Mặc dù máy bay ném bom trên hạm FB-22 thực sự đáng chú ý, nhưng có lẽ nó không làm thay đổi khả năng tổng thể của các nền tảng tàu sân bay hiện tại của Hải quân Hoa Kỳ.
Thêm vào đó, Không lực Hoa Kỳ chỉ mua 187 chiếc F-22 vào năm 2009 - ít hơn hàng trăm chiếc so với dự kiến ban đầu. Việc Washington chuyển hướng sang cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu và việc tiếp tục phát triển các nền tảng rẻ hơn đã khiến nhu cầu đối với Raptor bị sụt giảm mạnh.