1. Một số công việc đã triển khai
Dự án được Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư tại Nghị quyết số 41/2009/QH12 ngày 25 tháng 11 năm 2009. Dự án gồm 02 nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2; công suất lắp đặt mỗi nhà máy khoảng 2000 MW để cung cấp điện cho hệ thống điện quốc gia, góp phần phát triển kinh tế - xã hội đất nước và tỉnh Ninh Thuận. Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện các bước chuẩn bị đầu tư xây dựng Dự án một cách thận trọng, chắc chắn, theo đúng quy định của pháp luật.
Tính đến thời điểm hiện tại, một số việc chính của Dự án đã được triển khai gồm:
- Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN) đã hoàn thành và trình Thủ tướng Chính phủ Hồ sơ phê duyệt địa điểm và Báo cáo nghiên cứu khả thi của Dự án nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1; Báo cáo nghiên cứu khả thi của Dự án nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 2 đã được tư vấn quốc tế bổ sung, hoàn thiện và nộp cho EVN để thẩm tra.
- Hệ thống cấp điện phục vụ thi công nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và văn phòng làm việc của Ban quản lý dự án hiện đang trong giai đoạn xây dựng, hoàn thiện.
- Dự án Di dân tái định cư các dự án nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận do UBND tỉnh Ninh Thuận làm chủ đầu tư đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong tháng 6 năm 2015; đã hoàn hành công tác khảo sát, thiết kế các khu tái định cư.
- Về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho các dự án nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận: Từ năm 2010, Bộ Giáo dục và Đào tạo cử 381 sinh viên đi học các chuyên ngành liên quan đến điện hạt nhân tại các trường đại học của Liên bang Nga; đã thực hiện 242 lượt thực tập nước ngoài 03 tháng cho giáo viên, giảng viên các trường đại học về điện hạt nhân. Ngoài ra, EVN đã cử 31 sinh viên đi học các chuyên ngành liên quan đến điện hạt nhân ở Liên bang Nga, Pháp và 33 kỹ sư đi đào tạo cán bộ khung vận hành nhà máy tại Nhật Bản.
2. Lý do dừng thực hiện Dự án
Công nghệ hạt nhân của Liên bang Nga và Nhật Bản dự kiến sử dụng cho các dự án nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận đều là công nghệ tiên tiến nhất hiện nay và có mức độ an toàn rất cao nên hoàn toàn yên tâm. Việc dừng thực hiện Dự án không phải với lý do công nghệ mà là do điều kiện kinh tế nước ta hiện nay.
Cụ thể, tình hình phát triển kinh tế vĩ mô của Việt Nam hiện có nhiều thay đổi so với thời điểm quyết định chủ trương đầu tư Dự án, dư địa về tiết kiệm điện còn nhiều, khả năng liên kết lưới điện khu vực để trao đổi mua bán điện với các nước láng giềng dự kiến sẽ tăng cường trong thời gian tới và đặc biệt là tiềm năng sử dụng các dạng năng lượng tái tạo như gió, mặt trời trở nên khả thi về kinh tế do giá thành sản xuất điện từ các dạng năng lượng này đã giảm đáng kể trong giai đoạn 5 năm qua. Mặt khác, nước ta đang cần nguồn vốn lớn để đầu tư phát triển các dự án cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại để tạo động lực cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như nguồn vốn để giải quyết các vấn đề do biến đổi khí hậu gây ra.
3. Một số giải pháp, hướng xử lý khi dừng thực hiện Dự án
a) Về đảm bảo cung cấp điện
Dự kiến đến năm 2030, nếu hoàn thành, Dự án sẽ đóng góp khoảng 3,6% về công suất và 5,7% về sản lượng điện sản xuất của hệ thống điện quốc gia.
Việc dừng thực hiện Dự án không làm ảnh hưởng đến an ninh cung ứng điện do có thể bổ sung các loại hình nguồn điện khác trong hệ thống như các nguồn nhiệt điện than, nguồn điện từ năng lượng tái tạo, nguồn điện sử dụng khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) cũng như xem xét biện pháp tăng cường mua điện từ các nước láng giềng nhất là từ CHDCND Lào.
Các giải pháp thay thế cho Dự án trong giai đoạn tới:
- Giai đoạn đến năm 2030: Xem xét đầu tư thay thế các nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận bằng các nhà máy nhiệt điện than có công nghệ tiên tiến, hiện đại, thân thiện với môi trường và các nhà máy tua bin khí sử dụng LNG nhập khẩu với tổng công suất khoảng 6.000 MW bảo đảm thay thế sản lượng điện sản xuất của các nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2.
- Giai đoạn sau 2030: Tiếp tục phát triển hợp lý các nguồn nhiệt điện than và LNG nhập khẩu, xem xét đẩy mạnh phát triển nguồn năng lượng tái tạo như điện gió và điện mặt trời, đẩy mạnh việc thực hiện các biện pháp sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả thông qua tái cơ cấu kinh tế hướng đến các ngành sản xuất xanh có công nghệ thân thiện, tiết kiệm năng lượng; tăng cường liên kết lưới điện và hợp tác mua bán điện với các nước láng giềng.
b) Về xử lý đối với cơ sở hạ tầng đã đầu tư, nguồn nhân lực đã và đang đào tạo, một số chi phí đã thực hiện
- Chính phủ sẽ chỉ đạo thực hiện các biện pháp nhằm sử dụng tối đa, có hiệu quả đối với các cơ sở hạ tầng đã thực hiện đầu tư thuộc phạm vi Dự án để phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương.
- Nguồn nhân lực điện hạt nhân hiện đang được đào tạo tại Liên bang Nga và Nhật Bản sẽ tiếp tục được đào tạo để hoàn thành tốt nghiệp với thiện chí của Chính phủ Nga và Nhật Bản sẽ tiếp tục hỗ trợ đào tạo cho các sinh viên đến khi tốt nghiệp. Đây là nguồn nhân lực được đào tạo bài bản có thể sử dụng trong lĩnh vực ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình cũng như trong các nhà máy nhiệt điện và các Ban quản lý dự án nhà máy nhiệt điện của EVN.
- Đối với chi phí đã thực hiện của các Bộ, ngành và địa phương liên quan đến Dự án, Chính phủ sẽ chỉ đạo tổng hợp để giải quyết theo thẩm quyền. Đồng thời, Chính phủ cũng sẽ bàn với Chính phủ Liên bang Nga và Nhật Bản để sử dụng các kết quả đã đạt được trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư các Dự án.
c) Về quan hệ với các đối tác
- Việc dừng thực hiện Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận đã được Chính phủ trao đổi với các đối tác Nga và Nhật Bản cùng với thời điểm báo cáo Quốc hội xin chủ trương dừng thực hiện Dự án. Mặc dù các đối tác Nga và Nhật Bản đều bày tỏ sự đáng tiếc về việc dừng thực hiện Dự án với nhiều kết quả đã đạt được trong hợp tác đầu tư xây dựng các nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2, song về cơ bản các đối tác Nga và Nhật Bản đều thể hiện quan hệ hữu nghị, bày tỏ sự cảm thông và tôn trọng quyết định của Việt Nam, đồng thời Chính phủ Nga và Nhật Bản mong muốn sẽ tăng cường hợp tác, hỗ trợ cho Việt Nam một số lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng để thay thế cho hợp tác đầu tư xây dựng các nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận.
- Chính phủ Việt Nam đánh giá cao và cảm ơn sâu sắc về thiện chí, sự hỗ trợ của Chính phủ Liên bang Nga và Nhật Bản trong quá trình chuẩn bị đầu tư Dự án, sự hợp tác có hiệu quả của các đối tác tham gia trực tiếp vào Dự án như ROSATOM (Liên bang Nga), JINED (Nhật Bản) v.v.... Chính phủ Việt Nam thống nhất với Chính phủ Liên bang Nga và Nhật Bản về việc giao cho các cơ quan chức năng của các bên bàn bạc, thống nhất phương án sử dụng các kết quả đã đạt được trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư các Dự án. Việt Nam khẳng định Nga, Nhật Bản là các đối tác hàng đầu, ưu tiên trong trường hợp Việt Nam xây dựng điện hạt nhân trong tương lai.
- Chính phủ Việt Nam khẳng định rằng việc dừng thực hiện Dự án không làm ảnh hưởng đến quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Liên bang Nga và quan hệ đối tác sâu rộng với Nhật Bản.
- Để thay thế cho hợp tác đầu tư xây dựng các nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2, Chính phủ Việt Nam sẽ tiếp tục trao đổi với Chính phủ Liên bang Nga và Nhật Bản về hợp tác thực hiện các dự án trong các lĩnh vực kết cấu hạ tầng, kinh tế, thương mại v.v…mà các doanh nghiệp của Liên bang Nga và Nhật Bản có thế mạnh, đồng thời phù hợp với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
d) Chính phủ tiếp tục quan tâm đến việc phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Ninh Thuận, có giải pháp để sử dụng hiệu quả cơ sở vật chất đã đầu tư tại Ninh Thuận khi dừng Dự án.