Khả năng chuyển giao thông tin và kiến thức theo phương thức chữ viết, không bằng lời nói, được ứng dụng trong mọi lĩnh vực đời sống.
Chữ viết đã phải vượt qua một chặng đường dài để trở thành một trong những loại hình nghệ thuật quan trọng nhất trên thế giới.
Sự khởi đầu vô hại
Việc tạo ra chữ viết không phải là việc dễ dàng và phải trải qua hàng nghìn năm mới xuất hiện hệ thống chữ viết đầu tiên. Chính vì vậy, tổ tiên của chúng ta đã bắt đầu từ việc “chuyển giao dữ liệu” thông qua các hình vẽ đơn giản.
Hình vẽ bánh xe lúc ban đầu dùng để ám chỉ Mặt trời. Tuy nhiên, hình vẽ con người thể hiện đúng là con người, tương tự, hình vẽ động vật là để chỉ động vật. Cách thể hiện nội dung thông qua những ký hiệu như vậy được gọi là chữ hình vẽ.
Những hình vẽ như thế được tìm thấy trong văn hóa Amratian (Ai Cập thời tiền sử) hoặc trong văn hóa thời kỳ Uruk. Các biểu tượng của văn hóa Vinca được coi là tổ tiên của nghệ thuật này.
Nền văn hóa bí ẩn này phát triển ở Đông Nam châu Âu từ khoảng năm 5500 đến khoảng năm 4000 trước Công nguyên. Sau đó, các nền văn hóa khác đã phát triển chữ hình vẽ trên cơ sở của văn hóa Vinca.
Chữ hình vẽ không những không mất đi mà còn phát triển theo cách riêng của nó. Ngày nay, chúng ta có thể nhận thấy “chữ hình vẽ” trong các ký hiệu giao thông, cảnh báo hoặc chúng ta sử dụng “chữ hình vẽ” như thông điệp rút gọn trong các biểu tượng cảm xúc (emoticon).
Bảng đất sét và cây sậy
Chữ viết đầu tiên sử dụng các dấu hiệu với ý nghĩa được gắn trước là chữ hình nêm ở Trung Đông. Rất có thể nó được tạo ra bởi người Sumer vào khoảng năm 3500 trước Công nguyên.
Ban đầu, chữ hình nêm cũng dựa nhiều vào chữ hình vẽ, nhưng theo thời gian, nó phát triển đến mức có thể truyền tải những nội dung phức tạp hơn.
Dạng chữ hình nêm này được viết trên những tấm bảng đất sét ướt bằng những cây sậy vót nhọn đầu. Sau đó, người ta đem phơi những tấm bảng đất sét đó dưới ánh nắng. Điều đáng ngạc nhiên là chữ hình nêm còn được sử dụng cho đến thời Alexander Đại đế (336 TCN - 323 TCN).
Sau khi thu phục được hầu hết thế giới, Alexander Đại đế đã có đóng góp to lớn vào nền văn minh Hy Lạp. Trong thời đại văn hóa Hy Lạp, chữ viết hình nêm dần dần biến mất, thay vào đó là chữ viết Hy Lạp – một thứ chữ viết đơn giản hơn nhiều.
Những hình vẽ kỳ lạ trong kim tự tháp
Chữ viết thời Ai Cập cổ đại được cho là khởi đầu từ năm 3000 trước Công nguyên. Lúc ban đầu, nó là chữ hình vẽ. Tuy nhiên, sau này người Ai Cập chỉ sử dụng chữ tượng hình của họ để viết trong các đền thờ và khắc trên đá. Chữ thày tu (hieratic) Ai Cập cổ đại đã giúp tạo ra các tác phẩm văn học và hợp đồng thương mại.
Tiếp đó, chữ bình dân được người dân Ai Cập cổ đại bình thường sử dụng để ghi chép và lập ra các hợp đồng thương mại nhỏ. Mặc dù, chữ tượng hình Ai Cập là cách ghi chép được nhiều người biết đến, nhưng trong phần lớn lịch sử Ai Cập, thứ chữ này chỉ được sử dụng trong các vấn đề tôn giáo.
Trong lịch sử chữ viết, Ai Cập còn được biết đến nhờ một loại cây – cây cói giấy. Từ loại cây này, người ta sản xuất ra giấy papirus – một trong những loại giấy nổi tiếng nhất.
Khác với những tấm bảng đất sét nặng trịch, giấy papirus có thể vận chuyển và lưu giữ dễ dàng. Vì vậy, không có gì là ngạc nhiên khi trong những giai đoạn muộn hơn của nền văn minh nhân loại, giấy thay thế tất cả các loại vật liệu dùng để ghi chép. Ngày nay, chúng ta không thể hình dung những quyển sách dưới dạng các tấm bảng đất sét.
Khi nào chúng ta bắt đầu viết “theo cách của mình”?
Trong lịch sử châu Âu, chữ viết Phoenicia đóng vai trò rất quan trọng. Thứ chữ viết này xuất hiện vào khoảng năm 1200 trước Công nguyên tại Phoenicia.
Dân Phoenicia là những người đầu tiên trong lịch sử không chỉ sử dụng tiền xu làm phương tiện thanh toán, mà còn sử dụng bảng chữ cái alphabet. Những thứ này, hóa ra, là các thành tố chủ chốt thúc đẩy sự phát triển của nghệ thuật chữ viết và quyết định việc đơn giản hóa các vấn đề khoa học bằng chữ viết.
Người Hy Lạp bắt đầu cải tiến cách viết chữ. Lúc đầu, người Hy Lạp viết từ phải sang trái, tương tự như trường hợp chữ Semit. Sau đó, họ sử dụng phương pháp viết chữ gọi là biustrophedon (viết mỗi dòng theo chiều khác nhau).
Tuy nhiên, bảng chữ cái Latinh đóng vai trò quan trọng nhất (từ bảng chữ cái này xuất hiện bảng chữ cái Etruscan). Lúc ban đầu, bảng chữ cái Latinh bao gồm 21 chữ cái.
Cùng với thời gian, xuất hiện thêm một số chữ cái mới. Ngày nay, hệ thống chữ cái Latinh được sử dụng hằng ngày và nó là hệ chữ cái thông dụng nhất thế giới.