Theo PGS.TS Nguyễn Minh Tường - Viện Sử học, thì Lạc Đạo còn có tên nôm là Đậu, nay thuộc huyện Văn Lâm (Hưng Yên). Vào đầu thế kỉ 19, Lạc Đạo thuộc phủ Thuận An, xứ Kinh Bắc.
Đất thiêng sinh nhân kiệt
Nhìn trên bản đồ hành chính, Lạc Đạo tọa lạc ở khoảng giáp ranh của ba vùng đất đều có bề dày văn hoá: Thăng Long – Kinh Bắc – xứ Đông. Vị trí thuận lợi ấy phần nào giải thích về thành tích khoa bảng vang danh, có đến 11 đại khoa liên tục từ khoảng giữa thế kỉ 16 đến giữa thế kỉ 18.
Đó là điều hiếm có dưới thời phong kiến, khi điều kiện kinh tế thuần nông eo hẹp, trường lớp phần lớn do làng xã tự lập.
Chính bởi vùng đất có nhiều người hay chữ nên dân gian có câu thành ngữ: “Ghênh đẻ, Khe nuôi, Đậu dạy”. Làng Đậu chính là Lạc Đạo, sánh ngang với hai làng Ghênh (Như Quỳnh) - tương truyền là quê hương của bà Ỷ Lan - vợ vua Lê Thánh Tông, và làng Khe (Liễu Ngạn) - quê hương của bậc thi bá tài hoa Nguyễn Gia Thiều.
Người xưa cho rằng, nếu chỉ làm nghề nông đơn thuần thì khó mà có điều kiện kinh tế để cho con cái ăn học đàng hoàng. Người Lạc Đạo từ xưa đã giỏi làm kinh tế, trước thời Pháp thuộc cho tới năm 1977 – Lạc Đạo vốn là lỵ sở của huyện Văn Lâm.
Với điều kiện giao thông đường thuỷ (sông Đậu - Nghĩa Trụ) – là con đường chính để vua chúa các triều đi kinh lý xứ Đông, cũng là đường thông thương chủ yếu, từ xa xưa vùng này đã có một khu chợ sầm uất gọi là chợ Đậu được chép trong sách “Đại Nam nhất thống chí”.
Một trong những nghề nổi tiếng ở Lạc Đạo từ xa xưa chính là nấu rượu. Không ai biết nghề nấu rượu ở Lạc Đạo có từ bao giờ. Chỉ biết đó là nghề cha truyền con nối. Lớp lớp người Lạc Đạo sinh ra và lớn lên đã thấy ông bà, cha mẹ mình nấu rượu.
Có lẽ rượu Lạc Đạo từ chợ Đậu theo sông Nghĩa Trụ đã đi khắp nơi: Lên xứ Đông, vào Kinh Bắc, ra Thăng Long, xuống Sơn Nam… Bởi vậy mới có câu ca: Rượu Lạc Đạo lắm gạo nhiều men/ Uống được vài chén say mềm vẫn vui.
Đúng như lời Phan Huy Chú đã nhận xét trong “Lịch triều hiến chương loại chí”, rằng: “Kinh Bắc đó là nơi có mạch núi cao vót, nhiều sông vòng quanh, là mạn trên của nước ta. Phong cảnh thì phủ Bắc Hà, Lạng Giang là đẹp hơn cả. Văn học thì phủ Từ Sơn, Thuận An nhiều hơn.
Mạch đất tốt tụ vào nên sinh ra nhiều danh thần. Vì là hồn khí trọng ở phương Bắc phát ra nên khác với mọi nơi”. Có lẽ vì thế mà Lạc Đạo xuất hiện nhiều nhân tài, trở thành vùng đất văn hiến với truyền thống khoa bảng nổi danh.
Tượng thờ Trạng nguyên Dương Phúc Tư tại Lạc Đạo (Hưng Yên). |
Chân nho – đại thủ bút
Nhắc đến Lạc Đạo, không thể không biết tới Trạng nguyên Dương Phúc Tư (1505 - 1563). Thuở hàn vi, Dương Phúc Tư vừa đi cày vừa đi học. Sẵn có tư chất thông minh lại ngày đêm đèn sách, với sự quan tâm dạy dỗ chu đáo của người cha, người thầy mẫu mực là cụ Giảng Dụ Nghĩa Yêm, Dương Phúc Tư đã đạt đến đỉnh cao của nền học vấn đương thời.
Tuy nhiên, gặp buổi nhà Mạc tiếm ngôi nhà Lê, đắn đo mãi cho tới khi ngoài 40 tuổi ông mới ra dự thi. Khoa Đinh Mùi niên hiệu Vĩnh Định thứ nhất (1547), đời Mạc Phúc Nguyên, ông đỗ Trạng nguyên - đứng đầu 30 tiến sĩ. Ông cũng là người khai khoa cho dòng họ Dương ở Lạc Đạo.
Bài văn sách thi Đình của Dương Phúc Tư được vua phê rằng: “Điều đối thiết yếu, chân đại thủ bút, sĩ vị chân nho, xuất thế đạo hành” (Có thể hiểu là: Điều đối thật là thiết yếu, đây là cây bút lớn, là vị chân nho, xuất thế đạo hành).
Theo các nhà nghiên cứu thì khoa thi này có chất lượng tốt nhất, đề thi nêu những vấn đề cần giải quyết của đất nước đương thời. Hội đồng chấm thi lúc đó là các Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa của các khoa thi trước và những danh nho uyên thâm.
Để học hành thi cử phải có bài bản và khoa học, chắc chắn là cụ Giảng Dụ phải có nhiều sách. Căn cứ vào bài thi đình đối, các điển tích, điển cố, tên sách, tên người mà Trạng nguyên biên ra - mới thấy các loại sách mà Dương Phúc Tư đã đọc để học nhiều vô kể. Vào thời đó, chữ chép vào giấy và sách chỉ có nhà giàu và nhà có chí học mới mua nổi.
Trong bài thi đình đối của ông lại kết thúc bằng thuyết Nhân - Nghĩa, nghĩa là việc giáo dục con người sống có đạo đức “Vua cho ra vua, tôi cho ra tôi, cha cho ra cha, con cho ra con”. Ngày nay, các tác phẩm mà ông trích dẫn qua bản dịch thống kê sơ bộ có gần 30 tác phẩm.
Trạng nguyên Dương Phúc Tư từng làm quan đến chức Binh bộ Thượng thư, được vua phong Tử khanh Thiếu bảo, Dương tướng công. Về sau Dương Phúc Tư từ quan đi dạy học ở Cổ Thiết, Sơn Tây.
Là bậc chân nho văn võ song toàn, một thầy dạy học lỗi lạc, học trò của Trạng nguyên Dương Phúc Tư có nhiều người đỗ cao. Trong đó có Phạm Trấn, người xã Lam Cầu, huyện Gia Lộc (Hải Dương) đỗ Trạng nguyên, khoa thi năm Bính Thìn (1556).
Sau này, Trạng nguyên Dương Phúc Tư về quê sinh sống và mất khi mới 59 tuổi. Mộ ông được táng tại gò Mả Cả ở thôn Ngọc. Di văn của ông còn lại một bài văn đình đối và tập thơ “Độc sử thi phả” hiện được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
Đời sau con cháu tôn Trạng nguyên Dương Phúc Tư là thủy tổ của họ Dương xã Lạc Đạo. Kế thừa đạo học của Trạng nguyên Dương Phúc Tư, họ Dương đã sinh thành những bậc quý hiển danh gia, làm nên sự nghiệp vẻ vang, mang tiếng thơm về cho dòng họ.
Từ thế kỷ thứ 16 đến hết thế kỷ 18 là thời kỳ họ Dương ở Lạc Đạo rất thịnh vượng về khoa cử. Tính từ năm 1547 – 1754, họ Dương nơi đây có 9 người đỗ đại khoa, gồm: Dương Phúc Tư, Dương Thuần, Dương Hoàng, Dương Khuông, Dương Hạo, Dương Lệ, Dương Công Thụ, Dương Khiêm, Dương Sử.
Dòng họ khoa bảng
Lạc Đạo có 11 vị đại khoa. |
Hiện trong nhà thờ của Trạng nguyên Dương Phúc Tư vẫn còn lưu tấm hoành phi “Trạng nguyên từ” cùng nhiều câu đối hay. Trong đó có câu: Tiên tổ Trạng nguyên, thanh thế công danh vang triều Mạc/ Hậu sinh Tiến sĩ, lưu truyền khoa bảng hiển Dương gia.
Dương Thuần đỗ Tiến sĩ khoa Mậu Thìn (1628) niên hiệu Vĩnh Hựu nhà Lê. Làm quan trải các chức Giám sát cấp sự đô, Cấp sự tự khanh thừa sứ. Đến năm Ất Mùi được thăng Hữu Thị lang bộ Hộ, Thừa chính sứ Sơn Nam, thăng chức Tả thị lang Bộ Lại, tước Nho Lâm bá. Ông là cháu của Dương Phúc Tư, và là cha của Tiến sĩ Dương Hạo.
Dương Hoàng tên tự là Nhã Chính, đỗ Tiến sĩ khoa Đinh Sửu niên hiệu Dương Hòa (1637) đời Lê. Ông là người cường tráng lại giỏi văn nên được cử đi quản lý quân ở Cao Bằng và Thuận Quảng.
Do lập công lớn, được vua ban khen, sau khi mất được triều đình cấp tiền, lệnh cho nhân dân địa phương làm lễ mai táng. Ông làm tới chức Tả thị lang Công bộ, tước Thọ Lâm hầu, tặng Thượng thư. Ông là cháu của Dương Phúc Tư, là em Tiến sĩ Dương Thuần và là chú của Dương Hạo.
Dương Hạo hiệu là Mẫn Giản, đỗ Tiến sĩ khoa Canh Thìn, niên hiệu Dương Hòa (1640). Ông làm quan trải qua nhiều chức vụ cao, nhiều lần được cử đi giám sát các trường thi như Sơn Tây, Sơn Nam. Khi mất được vua sửa lễ phúng 250 quan tiền.
Dương Quán đỗ Tiến sĩ khoa Mậu Tuất (1718), niên hiệu Vĩnh Thịnh. Làm quan đến Giám sát ngự sử, là cháu đời thứ 6 của Dương Phúc Tư.
Dương Công Thụ đỗ Tiến sĩ khoa Tân Hợi (1731), niên hiệu Vĩnh Khánh. Làm đến Tả thị lang Lại bộ. Ông được bao phong là Phúc thần, gia tặng là Văn ý Đoan chính, Thuận An Lạc Đạo đại vương…
Hiện nay trên mộ của ông vẫn còn một tấm bia thần đạo ca ngợi công lao, nội dung có đoạn: “…Tiếng tăm tốt đẹp vang dội khắp nơi, là người thân tín trong phủ chúa, được phân giúp đỡ Thế tử học tập trau dồi. Văn chương đạo đức đứng hàng đầu một thời. Nhà nghèo mà trách nhiệm thì nặng”.
Hai anh em Dương Sử và Dương Khiêm cùng đỗ Tiến sĩ khoa Giáp Tuất (1754), niên hiệu Cảnh Hưng. Dương Sử giữ chức Tự khanh đông các đại học sĩ, là người học rộng văn tài nên đương thời có câu: “Dục tảo khoa danh cử, tất đãi Dương Sử công”.
Dòng họ Dương đi định cư khắp nơi. Ở xã Phú Thị, huyện Châu Giang (nay là xã Mễ Sở, huyện Văn Giang) có chi Dương Duy Thanh đỗ cử nhân. Ông từng làm Đốc học Hà Nội, và các cháu chắt là Dương Bá Trạc, Dương Quảng Hàm, Dương Tụ Quán, Dương Bích Liên… đều là dòng họ Dương Phúc Tư.
Phần ghi chép về quan tước trong dòng họ Dương còn có: 2 Quận công, 9 tước Hầu, 2 tước Nam, 9 tước Bá, 3 tước Tử, 3 Đại vương, 5 Thượng thư, 2 Thái phó, 1 Thiếu phó, 2 Thái bảo và 1 Thiếu bảo.