Phần 2: Đưa bè mang bàn ghế “về xuôi”
Các lớp phải tự lo tháo dỡ lán trại, bàn ghế, bảng đen… rồi vận chuyển đến nơi sơ tán mới. Đến nơi lại phải tự lắp ráp rồi đào hệ thống hầm hào, đắp lũy xung quanh lớp. Một số đứa chịu không nổi, nhất là những đứa sức khỏe yếu, học kém và có hoàn cảnh gia đình khó khăn… nhân cơ hội này cũng bỏ học luôn.
Những ngày đầu, chúng tôi hè nhau khiêng vác, gồng gánh cuốc bộ, mệt đâu nghỉ đó theo phương châm “Kiến tha lâu cũng đầy tổ”. Nhưng chỉ được hai ngày là “quân lính” đã bơ phờ rã rời hết. Kiểu này chắc cả tháng cũng không vận chuyển xong, chứ nói gì đến chuyện lắp đặt dựng lại lớp, rồi còn phải đào hào đắp lũy… cho kịp khai giảng năm học mới. Rất may, trong “cái khó” thầy chủ nhiệm lớp - Đoàn Minh Tân đã “ló ra cái khôn”. Đó là, thầy huy động mấy bạn có xe đạp, lại rành “đường đi nước bước” cùng thầy bỏ hẳn một ngày đi khảo sát “lộ trình”, tìm cách làm sao để đỡ vất vả nhất. Đúng là “trời đất đã không phụ công người”, cuối ngày, mấy thầy trò tìm ra con đường tuy hơi xa nhưng có thể “giải phóng” được sức người, đó là chuyên chở bằng “đường thủy”. Đây có thể được coi là sáng kiến của sáng kiến, sáng kiến hay bậc nhất mà trong ba năm học chúng tôi được chứng kiến từ thầy.
Sau khi thống nhất phương án, ngày hôm sau, từ sáng sớm, ngoài một bộ phận vào dân xin thân cây chuối, số còn lại hô hào nhau bó gọn cột kèo, tranh tre, nứa, lá, nùn rơm, bàn ghế, bảng đen…, rồi khiêng vác dần ra bờ con kênh lớn chảy từ làng Văn Lãng ra cống Đỗ Xá. Tất tần tật vật tư dụng cụ của lớp học được “cuốn” lại thành một bè nổi. Dưới cùng là thân cây chuối được kết lại như giàn phao, phía trên là đòn tay, kèo, cột, tiếp là tranh lá, nùn rơm, trên cùng là bàn ghế, bảng đen… Kết bè xong thì trời đã tối. Trừ mấy đứa xung phong ngủ lại trên bè để “giữ nhà”, số còn lại được tha về hết.
Sáng sớm hôm sau, cả lớp tập trung đưa bè “về xuôi”. Để bè di chuyển được, dưới sự chủ trì và cố vấn của thầy chủ nhiệm, “Bộ chính trị mái tóc còn xanh” gồm Bí thư Chi đoàn Phạm Trung Thu, lớp trưởng Nguyễn Văn Khuông, lớp phó phụ trách lao động Vũ Ngọc Oanh và mấy đứa tổ trưởng chúng tôi đã họp bàn và quyết định áp dụng phương án “Trên kéo, dưới đẩy”. Tức là nối bè bằng một số dây thừng, dây chão thật chắc, dây này sẽ được mấy đứa con trai đi trên bờ kéo bè đi (giống như cách làm của dân chài đánh cá trên sông Hồng mỗi khi phải di chuyển thuyền ngược dòng), tạm gọi là “lực lượng thứ nhất”. “Lực lượng thứ hai” là chọn mấy đứa con trai to khỏe đứng dưới bè dùng cây sào dài cắm xuống bùn đẩy bè tiến về phía trước. Trong số này một đứa được phân công chỉ làm mỗi nhiệm vụ đứng ở mũi, cầm cây sào dài vừa đi vừa chống vào bờ để đẩy bè ra ngoài, không đâm chúi đầu vào bờ. Một số đứa xung phong nhảy xuống nước vừa bơi vừa đẩy bè, đây là “lực lượng thứ ba”. Sau này mới biết mấy đứa này khôn thật, vì vừa được tắm mát, vừa đỡ bị nắng nóng mùa Hè làm cháy da, cháy thịt.
Còn thầy chủ nhiệm (chỉ “diện” độc cái quần đùi) cứ như con thoi, lúc lội xuống phụ đẩy khi bè bị mắc cạn, lúc lại leo lên bờ phụ kéo với “lực lượng thứ nhất”. Thầy hăng hái nhiệt tình, nhiều lúc chúng tôi cảm thấy thầy còn khỏe hơn cả lũ học trò đang tuổi “bẻ gẫy sừng bò” chúng tôi nữa.
“Lực lượng thứ tư” là “hậu cần”, đựơc giao cho bọn con gái (không phải các vị này chân yếu tay mềm, mà vì bọn họ không thể cởi trần mặc quần đùi lội xuống sông như bọn con trai chúng tôi được). Lực lượng này gồm có Lương Thị Suột, Phạm Thị Mỷ, Nguyễn Thị Thành, Phạm Thị Loan, Phan Thị Khánh, Phạm Thị Nghê… đảm trách. Công việc của họ là mang xách nước uống, đồ ăn cơm nắm, muối vừng, mấy bình tông nước vối, hoa quả… chạy theo bè, phục vụ kịp thời mỗi khi “mặt trận” cần hoặc khi tới giờ ăn. Mỗi đứa đều được làm một công việc tùy theo sức của mình, không đứa nào bị bỏ rơi nên rất vui.
Vận chuyển bằng “đường thủy” đúng là sáng kiến tuyệt vời. Với cách làm này, “bè” cứ chạy băng băng, “giải phóng” triệt để sức lao động. Bè đi đến đâu là tiếng hô hét, hò la ầm ĩ đến đó. Vui lắm, quên hết mệt. Chỉ phải tội vài ngày sau chúng tôi vẫn còn khản tiếng. Thấy cách làm hay, mấy lớp khác cũng hô hào làm theo. Bằng cách này, lớp tôi đã về đích sớm nhất trường.
Chưa hết. Về tới nơi sơ tán mới, do không có đủ bàn học cho các bạn đầu cấp (khối lớp Tám) mới trúng tuyển từ cấp II chuyển lên, mỗi lớp chúng tôi lại được phân công khiêng vác hàng chục bàn học mới từ “xưởng mộc Phú Xuyên” xa tít tận làng Chuôn Tre (xã Tân Dân) cách nơi đóng đô mới của chúng tôi có lẽ cũng đến hơn hai chục cây số. Nhưng thật rủi, tuyến đường này lại không hề có “sông nước” nên phải vận chuyển bằng đường bộ. Lớp được chia làm hai, một số ở lại dựng lán, đào hầm hào…, số còn lại tổ chức thành từng nhóm, mỗi nhóm bốn đứa dùng hai đòn khênh xọc ngang dưới gầm bàn rồi khênh về. Với cái tuổi “bẻ gẫy sừng bò” thì sức nặng này chẳng nhằm nhò gì. Nhưng vì đường xa, “độ nặng” cứ tích lũy lại nên về tới nơi, đứa nào cũng mệt muốn khuỵu xuống (cũng mở ngoặc nói thêm, bàn học của thế hệ chúng tôi ngày đó rất dài, để cho 4 - 5 đứa ngồi, chứ không phải loại bàn kiểu mới chỉ cho hai người ngồi như bây giờ, nên cũng khá nặng và rất cồng kềnh khi vận chuyển).
Thấy trò cực quá, “trong cái khó” ngày hôm sau thầy tôi lại “ló ra” “cái khôn” mới, đó là phân công nhóm nào cũng có một bạn có xe đạp (hồi đó xe đạp hiếm lắm, mỗi lớp chắc cũng có khoảng gần chục đứa con nhà giàu mới có). Chỉ cần đặt chiếc bàn nằm vắt ngang qua yên xe, buộc thật chặt, rồi một đứa “cầm lái”, ba đứa còn lại vừa đỡ vừa đẩy xe đi rất nhẹ nhàng. Với sáng kiến này, không những giải phóng triệt để sức lao động, mà còn giảm rất nhiều thời gian vận chuyển (do không phải nghỉ giải lao như khi khiêng bộ). “Lính” cứ khỏe re, cười toe toe.
Chưa hết, do chuyến đi không có “hàng” nên đứa nào cũng được đi bằng xe đạp (không phải cuốc bộ), bằng cách hai đứa chở nhau đi trước, hai đứa còn lại đi bộ theo sau. Chở nhau được vài cây số, thì bỏ lại một đứa (cho đi bộ), đứa kia quay xe lại đón đứa đi sau… Cứ như vậy, đứa nào cũng được đi xe một đoạn, nên cũng giữ được sức cho lúc về (đi bộ).
__________________________________________
Phần 3: Phương pháp “tái hiện bài giảng”