Phần 1: Dựng lán làm lớp học
Một tin sét đánh và có thể được coi là không thể tin được đối với tôi - thầy chủ nhiệm những năm học cấp III - Đoàn Minh Tân, một người thầy luôn thương yêu và gần gũi như một người cha của lũ trò nhỏ lớp tôi ngày ấy, đã đi xa.
Không bất ngờ sao được, khi mà mới cách đó chưa đầy chục ngày tôi còn ngồi chơi với thầy cả buổi chiều và chụp ảnh trong phòng điều trị của Bệnh viện Nguyễn Trãi (TP Hồ Chí Minh). Còn nhớ, trước khi bay đi Singapore, tôi vào bệnh viện thăm và tặng thầy tác phẩm văn học “Bao cấp - một thời để nhớ” của tôi, theo đúng lời dặn của thầy. Thầy rất thích và mở ra đọc say mê. Không ngờ đây lại là lần gặp cuối cùng và cũng là bức ảnh cuối cùng hai thầy trò chụp chung với nhau…
Cả đêm đó, tôi buồn, trằn trọc không sao ngủ được. Bao nhiêu kỷ niệm về thầy cứ như cuốn phim quay chậm hiện về rõ mồn một, tưởng như chúng mới xảy ra ngày hôm qua.
Tôi và thầy Tân cùng ở trọ trong ngôi làng nhỏ, khi trường phải sơ tán máy bay Mỹ ba năm trời. Đã thế, thầy còn là giáo viên chủ nhiệm của lớp chúng tôi, ngày nào cũng gặp nhau trên lớp, gặp nhau trong xóm trọ, rồi gặp nhau cả những lúc sang nhà xin hoặc cho nhau đồ ăn mỗi khi nhỡ nhàng…
Trường Cấp III chúng tôi “đóng đô” tại thị trấn Phú Xuyên, nằm trên trục đường sắt Bắc - Nam và Quốc lộ I. Nơi đây có rất nhiều mục tiêu đánh phá của máy bay Mỹ nằm xung quanh như ga Phú Xuyên, Đỗ Xá, cầu Giẽ, cầu Guột, nhà máy đường Vạn Điểm, Bệnh viện Phú Xuyên, rồi chợ Lịm, chợ Chẩy… nên đã phải sơ tán về vùng sâu là xã Quang Trung nằm ở phía Tây của huyện.
Ban đầu khi chưa kịp xây dựng lớp, 8G của chúng tôi phải học nhờ trong ngôi đình của làng Văn Lãng, quán triệt chỉ thị của cấp trên, phải vừa học nhờ trong đình làng, vừa tự xây dựng lán lớp để học tập lâu dài. Sau này, nhà trường liên hệ xin nhờ được một vườn mía đã già cỗi sắp bỏ đi của dân để làm lán học trên đó. Học trong đình hay học trên vườn mía, điều đó không quan trọng. Nhưng phải cái là những vật liệu làm lớp học (tranh tre, nứa, lá…) trường lại không có. Quán triệt phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, nhà trường đã đề nghị học sinh cùng tham gia đóng góp thêm. Ở vùng nông thôn, những vật liệu này đều rất sẵn. Thế nhưng cái quan trọng lại là làm cách nào để những cô những cậu học sinh bé choăn choắt, yếu như “cua” có thể mang vác những cây tre dài hơn chục thước, nặng vài chục cân, rồi những bó tranh rơm rạ, những bó lùn rơm… nặng hàng chục ký từ quê cách xa trên dưới chục cây số để nộp trường. Chỗ làng tôi cũng cách gần hai chục cây số chứ chả ít. Đó là chưa kể có những bạn ở tận cuối huyện như xã Minh Tân, Minh Khai, Bạch Hạ… còn xa hơn tôi tới vài cây.

Những ngày đầu, mấy đứa ở gần nhà rủ nhau hợp tác XHCN cứ hai đứa vác chung một cây tre, ở giữa bó đeo kèm theo một hai cái tranh, hoặc bó lùn rơm. Đứa khỏe vác phần gốc, đứa yếu vác phần ngọn nhẹ hơn, nặng đâu nghỉ đó. Nhưng mỗi ngày cũng chỉ được một chuyến là đã mệt bủn rủn cả chân tay, nhất là những đứa yếu, đặc biệt là bọn con gái. Nếu làm cách này thì không biết bến bao giờ mới góp đủ vật tư làm cho xong một cái lán học. Rồi lại còn phải dành thời gian để học nữa chứ. Nhìn đàn em vất vả thầy chủ nhiệm Đoàn Minh Tân không khỏi xót xa. Chẳng lẽ lại bất lực. Và thế là sau một đêm suy nghĩ, sáng hôm sau thầy cho họp lớp để bàn cách khắc phục. Thầy đưa ra ý kiến:
- Các em về vận động cha mẹ, thay vì cho mấy cây tre, mấy cái tranh, mấy bó lùn rơm… mang vác lên đây, thì cha mẹ hãy bán số tre, tranh lùn rơm này ngay tại địa phương, rồi cầm tiền lên mua những thứ tương tự tại chỗ sơ tán. Nhà nào không có sẵn phải mua tại địa phương thì ta cầm tiền lên mua ngay tại đây. Vừa đỡ vất vả vừa kịp thời gian. Và ta vẫn đảm bảo có vật tư làm lán học.
Thầy vừa nói xong, cả lớp vỗ tay ầm ầm. Mấy đứa còn nhao nhao:
- Có vậy mà chả đứa nào nghĩ ra. Ngu thật!
Còn Phạm Trung Thu (Bí thư Chi đoàn) thì khẳng định:
- Đúng là “không Thầy đố mày làm nên”! hihihi.
Thật không ngờ, sáng kiến này đã được toàn bộ phụ huynh ủng hộ. Và thế là chỉ sau khoảng mươi ngày là chúng tôi đã góp đủ vật liệu làm lán học.
Cũng xin “xì” thêm với các bạn một thông tin nữa là tất cả “Đại công trình” xây dựng lán học này đều do những cô, cậu học sinh choai choai tuổi trẻ trâu chúng tôi tự làm. Dưới sự cố vấn, và “cùng ăn, cùng ở, cùng làm” của thầy chủ nhiệm (một ông thầy có dáng vẻ một ông thợ mộc nhiều hơn là một giáo viên dạy Văn giỏi cấp tỉnh). Cộng với sự giúp đỡ của mấy bác thợ mộc do Hợp tác xã Nông nghiệp làng Văn Lãng cử đến làm “thợ cả”.
Dựng lán xong chúng tôi còn phải đắp tường đất dầy xung quanh (gọi là lũy) để ngăn mảnh bom, mảnh đạn từ ngoài văng vào, đào thêm hệ thống giao thông hào, rồi hầm chữ A… để mỗi khi có báo động máy bay Mỹ là thầy trò tụt xuống chạy ra trú ẩn tại những căm hầm chữ A xung quanh lớp.
Mặc dù đã được sơ tán vào tận xã Quang Trung, rồi lại mất rất nhiều thời gian xây dựng lán trại, hầm hào tránh bom… nhưng khoảng gần một năm sau đó, máy bay Mỹ đánh phá ngày càng ác liệt, mà chỗ sơ tán của trường tôi chỉ cách ga Đỗ Xá và ga Tía (mục tiêu đánh phá số một của máy bay Mỹ) cũng chỉ chưa đầy chục cây số theo đường chim bay. Hơn nữa, cánh đồng của xã Phú Cường (nằm cạnh xã Quang Trung - nơi trường tôi sơ tán) lại vừa xây dựng nhiều trận địa tên lửa, pháo cao xạ loại lớn để bảo vệ trục đường sắt Bắc - Nam, Quốc lộ 1 và hệ thống cầu cống, nhà ga nằm trên trục đường này. Rồi cả những bãi tên lửa… giả, để đánh lừa máy bay Mỹ.
Chỗ trường chúng tôi sơ tán, cũng không còn là nơi an toàn như trước. Vừa hết lớp 8, trường tôi lại có quyết định của cấp trên sơ tán lần thứ hai về xã Hiệp Hòa (nơi cách xa các mục tiêu đánh phá hơn xã Quang Trung). Ra quyết định chuyển nơi sơ tán thì rất đơn giản nhưng để thực hiện thì vô cùng vất vả, gian nan. Đặc biệt là việc di chuyển nhà cửa, lán trại (lớp học), bàn ghế…
Nơi sơ tán mới cách chỗ trường tôi đang sơ tán khoảng hơn hai chục cây số. Làm sao để vận chuyển một khối lượng đồ đạc khổng lồ, nặng nhiều tấn chỉ với đôi vai gầy thiếu ăn của thầy trò chúng tôi. Cũng xin nói thêm, hồi đó rất thiếu những phương tiện chuyên chở như xe bò, xe ba gác… còn xe ô tô tải thì không thể có. Loại phương tiện cao cấp này, còn phải dành để chuyên chở bộ đội, vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm, thuốc men… ra chiến trường.
____________________________________________
Phần 2: Đưa bè bàn ghế “về xuôi”
*Bài viết giành giải Ba Cuộc thi viết “Những kỷ niệm sâu sắc về thầy cô và mái trường” năm 2024