Kỵ binh có cánh

GD&TĐ - Thế kỷ XVI, trong quân đội Vương quốc Ba Lan (1000 - 1795) có một đội lính đánh thuê với bề ngoài ấn tượng nhất lịch sử, là mang đôi cánh trên lưng.

Vũ trang hoàn chỉnh của một kỵ binh có cánh. Ảnh minh họa: Zinnfigur.com
Vũ trang hoàn chỉnh của một kỵ binh có cánh. Ảnh minh họa: Zinnfigur.com

Khác với vẻ ngoài nhẹ như bay lên được, họ là kỵ binh hạng nặng khét tiếng hung tợn, đánh đâu thắng áp đảo đó.

Gốc gác Hungary

Tên của kỵ binh có cánh là Hussar quân. Gốc gác cái tên này bắt nguồn từ ngôn ngữ Serbia, là sự kết hợp của Hu (Hungary viết tắt) và gusar (giang hồ). Theo tư liệu sử, Hussar quân là tập hợp của các lính đánh thuê di cư từ Hungary. Đến năm 1500, họ được Vương quốc Ba Lan thuê làm kỵ binh hoàng gia mới dần nổi tiếng.

Nguyên nhân chính khiến Ba Lan thuê Hussar quân là vì nhóm này có thâm thù với Đế chế Ottoman (Thổ Nhĩ Kỳ). Cũng vào năm 1500, Ottoman tăng cường Cải cách Rascian, điên cuồng tấn công các nước giáp biên giới phía Đông Nam, trong đó có Ba Lan. Để đối phó, Ba Lan cần tăng quân và Bộ trưởng Bộ Ngân khố Andrzej Kościelecki đã quyết định chi ngân sách thuê Hussar quân.

Năm 1503, sau khi lập một vài chiến công, Hussar quân được Ba Lan công nhận là đội kỵ binh hoàng gia, ban cờ hiệu Hungary. Kể từ lúc này, Hussar tuyển thêm nhiều thành viên, không phân biệt quốc tịch và trở thành lực lượng quân sự lớn mạnh.

Đơn vị nhỏ nhất trong Hussar quân là nhóm 3 - 6 người, trong đó có một người là tiểu đội trưởng và còn lại là đội viên. Họ trang bị giống nhau là áo giáp, thương và ngựa. Chiến thuật chính của Hussar quân là xung phong tấn công trên lưng ngựa. Họ cưỡi ngựa xông thẳng vào hàng ngũ của địch và xuyên qua với tốc độ nhanh. Trong lúc xuyên qua, họ giao tranh, vừa giết vừa phá vỡ đội hình của địch. Hành động này tái lặp cho đến khi trận tàn.

Thương của Hussar quân rất dài, thường từ 4,5 - 6,2m, do đích thân nhà vua hoặc quý tộc ban tặng và được mạ vàng rất đẹp. Áo giáp thì nặng tầm 15kg, kín từ đầu đến chân nhưng rất linh động nhờ khớp nối tinh vi.

Ngoài thương, Hussar quân còn sử dụng thêm kiếm, kiếm cong, búa, rìu… thời kỳ có súng đạn thì trang bị mỗi người từ 2 - 6 cây súng lục hoặc 1 cây súng trường (súng carbine hoặc súng hỏa mai).

Ngựa của họ cũng được mặc giáp và nhờ ngựa khỏe, giáp ngựa nhẹ, chúng linh động hơn hầu hết ngựa chiến của các đội quân kỵ binh khác đương thời. Trung bình, ngựa của Hussar quân có thể cõng 100kg di chuyển liên tục hàng trăm km. Hussar quân quý ngựa đến mức phạt tử hình với bất cứ thành viên nào phạm tội bán trộm ngựa.

Ban đầu, Hussar quân chỉ dùng khiên gỗ và giáp vải nên thuộc diện vũ trang hạng nhẹ nhưng họ sớm chuyển sang vũ trang hạng nặng với khiên, giáp bằng kim loại. Nửa cuối thế kỷ XVI, tất cả các nhóm Hussar quân đều được cải tổ, trở thành kỵ binh hoàng gia hạng nặng và đến năm 1590 thì chính thức là kỵ binh hạng nặng toàn diện.

ky-binh-co-canh-2.jpg
Trên chiến trường, đôi cánh của Hussar quân áp đảo tinh thần địch. Ảnh minh họa: Ancient-origins.net

Đôi cánh hung tàn

Đặc trưng ngoại hình nổi bật nhất của Hussar quân là đôi cánh lớn được chế bằng gỗ (làm khung) và lông các loại chim to lớn như đại bàng, kền kền, ưng… Ban đầu, họ gắn đôi cánh lên yên ngựa nhưng kể từ thế kỷ XVII thì gắn trực tiếp vào áo giáp nên nhìn như người có cánh.

Khác với đôi cánh mỹ miều của loài lông vũ, đôi cánh của Hussar quân rất đáng sợ. Ngoài lông vũ, họ còn lấy da báo hoặc da linh miêu căng khung nên tấn công trực tiếp vào thị giác quân địch, gây ám ảnh tinh thần.

Một số ghi chép đương thời còn viết rằng, đôi cánh của Hussar quân tạo ra âm thanh xé gió khủng khiếp khi họ lao nhanh vào quân địch. Tuy nhiên, theo các học giả ngày nay, đó chỉ là lời “chém gió” vì khả năng tạo âm của đôi cánh này còn không bằng cờ. Họ tin rằng, chức năng chính của đôi cánh là hù dọa khi giáp mặt và làm rối loạn đội hình kẻ địch khi giao tranh.

Năm 1577, Ba Lan đánh Trận Lubieszów quyết định thắng bại giữa tân vương vừa lên ngôi là Hoàng đế Stephen Báthory (1533 - 1586) và quân phản loạn Danzig. Trong khi Ba Lan chỉ có 1.000 bộ binh và 1.300 kỵ binh có cánh thì quân phản loạn đông tới 12.000 người, có trang bị cả pháo hạng nặng lẫn pháo hạng nhẹ.

Với số lượng áp đảo, quân phản loạn nghênh ngang thách chiến. Họ không ngờ, chỉ với 1.300 kỵ binh và chiến thuật xung phong xuyên qua nhanh, Hussar quân xé lẻ hàng ngũ và đánh quân sĩ của họ thua tan tác.

Thắng trận, các kỵ binh có cánh truy kích ráo riết. Họ hạ sát gần 4.500 quân Danzig và bắt sống khoảng 5.000 người. Với thành tích này, Hussar quân vang danh khắp các ngả và bước vào thời kỳ hoàng kim tên tuổi. Chỉ cần nghe tới biệt danh “kỵ binh có cánh”, các binh lính địch đã rụng rời chân tay.

Năm 1683, Hussar quân lần nữa ấn định tên tuổi bằng cuộc phá vây Vienna. Trong khi Ottoman đang ngời ngợi tự tin sẽ siết chết Kinh đô Vienna (Áo) thì kỵ binh có cánh đột ngột xuất hiện, tấn công kịch liệt và chẳng mấy chốc đã phá vỡ vòng vây của họ, giải thoát cho Vienna. Cuộc cứu viện này của Hussar quân không chỉ đánh bật Ottoman khỏi Áo, mà còn khởi đầu kết thúc sự thống trị của họ tại Đông Âu.

Bước sang thế kỷ XVIII với sự lên ngôi của súng đạn, Hussar quân mới dần mất uy thế. Tuy nhiên, họ đã chuyển vai từ lực lượng chiến đấu tinh nhuệ sang đơn vị diễu hành. Đôi cánh của họ cũng được tháo khỏi lưng áo giáp, giơ lên trên đầu, những chiếc lông vũ thì được nhuộm nhiều màu sắc, hình thành đội ngũ cực kỳ mạnh mẽ và mãn nhãn.

Năm 1776, Ba Lan phải giải tán Hussar quân vì tình hình tài chính rơi vào eo hẹp, không đủ tiền duy trì hoạt động cho đội kỵ binh này. Dù vậy, tên tuổi của Hussar quân vẫn sống mãi. Ngày nay, Khối Thịnh vượng chung vẫn nhắc lại các chiến công của họ và năm 2024, Ba Lan còn đặt tên máy bay chiến đấu F-35 là Husarz để vinh danh.

Suốt 2 thế kỷ XVI - XVII, Hussar quân gần như vô địch trên chiến trường. Họ đánh đâu thắng đó, ngoài 2 trận kể trong bài còn một loạt các trận khác như Byczyna (1588), Trzciana (1629), Cudnów (1660)… Trong Trận Klushino (1610) với quân Muscovite và Thụy Điển, họ còn thắng với lực lượng chỉ bằng 1/5 quân địch.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ