Qua đó hoàn thiện bản thân và tăng cường gắn kết xã hội.
Công bằng trong đánh giá
Theo báo cáo của Bộ GD&ĐT, cả nước có hơn 17.400 cơ sở giáo dục thường xuyên; trong đó có 71 trung tâm giáo dục thường xuyên cấp tỉnh; 619 trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên cấp huyện; trên 10.400 trung tâm học tập cộng đồng; hơn 5.600 trung tâm ngoại ngữ - tin học; 658 cơ sở, trung tâm thực hiện giáo dục kỹ năng sống.
Số lượng cơ sở giáo dục thường xuyên tư thục tăng nhanh, đặc biệt là hệ thống trung tâm tin học, ngoại ngữ, đã hỗ trợ tích cực trong việc nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học cho học sinh, sinh viên, cán bộ, công chức, giáo viên và mọi người dân theo hướng xã hội hoá.
Nhấn mạnh, hệ thống giáo dục có 2 giai đoạn: Giáo dục ban đầu (dành cho học sinh) và giáo dục tiếp tục (dành cho người lớn), GS.TS Nguyễn Thị Doan – nguyên Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam đánh giá, thời gian qua, Vụ Giáo dục thường xuyên (Bộ GD&ĐT) đã phối hợp tốt với Hội Khuyến học Việt Nam để thúc đẩy giáo dục người lớn. Việc này được thực hiện thông qua những mô hình học tập, cộng đồng học tập, đơn vị học tập, gia đình học tập, công dân học tập và dòng họ học tập.
GS.TS Nguyễn Thị Doan cho rằng, cần công bằng trong đánh giá giữa giáo dục tiếp tục và giáo dục ban đầu. Làm thế nào thúc đẩy người lớn học tập, tạo cơ hội cho tất cả người lớn học tập, học tập suốt đời. Trên tinh thần đó, Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam đề nghị, các địa phương thực hiện tốt phát động của Thủ tướng Chính phủ, thi đua “xóa mù” công nghệ và ngoại ngữ trong thời đại 4.0.
Đồng thời, quan tâm đến các thiết chế giáo dục, cơ sở giáo dục thường xuyên, trung tâm học tập cộng đồng, câu lạc bộ và thư viện. Qua đó, nhằm giúp người lớn tiếp cận với tài nguyên giáo dục mở; quan tâm đến những người hoạt động ở các trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm học tập cộng đồng.
Học sinh Trường THPT Chi Lăng (Lạng Sơn) đọc sách tại thư viện. Ảnh: Sỹ Điền |
Vừa là mục tiêu và động lực
Thúc đẩy xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời là một trong những yêu cầu của Đại hội Đảng lần thứ XIII, TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến - nguyên Trợ lý Bộ trưởng Bộ GD&ĐT nhắc lại. Trên cơ sở đó, chuẩn bị nguồn nhân lực cho chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số.
Rà soát, quy hoạch, phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục, đào tạo trên cả nước đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời, xây dựng xã hội học tập và gắn với quy hoạch nguồn nhân lực và phát triển kinh tế - xã hội. Đẩy mạnh công tác hướng nghiệp, phân luồng, liên thông trong giáo dục, đào tạo gắn với nhu cầu của xã hội.
Theo TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến, quan điểm chỉ đạo nêu trên thể hiện một tiếp cận tổng thể trong học tập suốt đời, gắn kết học tập suốt đời giáo dục mở, khung trình độ quốc gia, yêu cầu của thị trường và cách mạng công nghiệp lần thứ 4, giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam.
Đặc điểm trong sự phát triển thể chế học tập suốt đời của nước ta là gắn liền với sự phát triển thể chế xây dựng xã hội học tập. Ngay trong Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010 đã quy định: “Xây dựng XHHT, tạo điều kiện cho mọi người, ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ được học thường xuyên, học suốt đời”.
“Như vậy chúng ta quan niệm xã hội học tập vừa là mục tiêu, vừa là động lực của học tập suốt đời. Theo nghĩa đó, xã hội học tập là xã hội phổ cập học tập suốt đời cho mọi người; là xã hội trong đó học tập suốt đời thực sự là quyền cơ bản của mọi người, phù hợp với nguyên tắc cơ bản được UNESCO khởi xướng trong khế ước xã hội mới về giáo dục” - TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến nhấn mạnh.
“Việt Nam đã ban hành Đề án quốc gia đầu tiên về xây dựng xã hội học tập từ năm 2005, tức là gần 20 năm trước”, bà Miki Nozawa - Văn phòng UNESCO tại Việt Nam ghi nhận và cho rằng, trong thế giới thay đổi nhanh chóng mà chúng ta đang sống, mọi công dân đều cần có cơ hội học tập suốt đời, để hoàn thiện cá nhân, tăng cường gắn kết xã hội và thúc đẩy sự thịnh vượng về kinh tế.
Từ thực tiễn triển khai xây dựng xã hội học, thúc đẩy học tập suốt đời, bà Bùi Thanh Xuân - Phó Trưởng ban Ban Nghiên cứu giáo dục thường xuyên (Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam) nhận thấy, việc nâng cao nhận thức toàn xã hội, đặc biệt đối với các bộ, ngành và doanh nghiệp về sự cần thiết và lợi ích của học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập có tầm quan trọng hàng đầu. Theo đó, sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, cam kết và ý chí chính trị của các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho thành công.
Ngoài ra, cần khung pháp lý đầy đủ để bảo đảm có cơ chế ràng buộc, phối hợp hiệu quả hơn và sự tham gia tự giác của các tầng lớp xã hội vào học tập suốt đời, xây dựng xã hội học tập. Đồng thời, tăng cường đầu tư tài chính và cơ sở vật chất phục vụ học tập suốt đời, huy động sự tham gia của khu vực tư nhân sẽ tạo ra những động lực to lớn cho sự phát triển học tập suốt đời.
Cũng theo bà Bùi Thanh Xuân, việc củng cố, phát triển mạng lưới các đơn vị học tập, cộng đồng học tập và học tập trong mỗi gia đình có ý nghĩa quyết định đến chất lượng và hiệu quả của việc thực hiện chủ trương học tập suốt đời.
Bên cạnh đó, cần đổi mới cơ chế quản lý theo hướng xây dựng mô hình toàn chính phủ, liên bộ ngành, gắn kết mọi thành phần trong toàn xã hội, phối hợp các cơ quan Nhà nước, các đoàn thể, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp cùng tham gia chủ động và tích cực vào các hoạt động thúc đẩy học tập suốt đời, xây dựng xã hội học tập.
Mặt khác, cần tăng cường các hoạt động hợp tác, giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có nhiều kinh nghiệm về học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập.
Năm 2005, Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2005 - 2010” được Chính phủ phê duyệt với tiêu chí tổng quát là tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi để mọi người dân ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ được học tập thường xuyên, liên tục, học suốt đời, học ở mọi lúc, mọi nơi, mọi trình độ. Năm 2021, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục phê duyệt Đề án giai đoạn 2012 - 2020 và giai đoạn 2021 - 2030.