Chương trình có sự tham gia của các khách mời:
ThS. Lê Thị Hoàng Hà – Trưởng bộ môn Đánh giá trong Giáo dục, khoa Quản trị chất lượng, Trường ĐH Giáo dục, ĐH Quốc gia Hà Nội.
Ông Lê Việt Dương – Hiệu trưởng Trường THPT Trương Định, Quận Hoàng Mai, Hà Nội.
Bà Nguyễn Thị Thúy – Tổ trưởng tổ Xã hội, Trường THCS Lương Yên, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.
Thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, ngành Giáo dục đã chọn đổi mới thi, kiểm tra, đánh giá là một giải pháp đột phá. Trong những năm qua, những đổi mới trong hoạt động này đã góp phần thực hiện mục tiêu chuyển từ nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang phát triển toàn diện phẩm chất, năng lực của người học.
Riêng với kiểm tra, đánh giá, giáo dục tiểu học đã đi trước với sự ra đời của Thông tư 30, sau đó được sửa đổi bởi Thông tư 22 và mới đây nhất là Thông tư số 27/2020/TT-BGDĐT quy định đánh giá học sinh tiểu học.
Ở bậc trung học, sau gần 10 năm thực hiện kiểm tra, đánh giá học sinh theo Thông tư 58, ngày 26/8/2020, Bộ GD&ĐT đã ban hành Thông tư 26/2020/TT-BGDĐT quy định hoạt động này với những điểm mới đáng chú ý: các môn học đều có đánh giá bằng nhận xét; chú trọng đánh giá quá trình; đa dạng hóa các hình thức kiểm tra, đánh giá; thống nhất số đầu điểm đánh giá thường xuyên, đánh giá định kỳ, tổng số đầu điểm đã giảm so với quy định hiện hành…
Tuy nhiên, giai đoạn đầu triển khai thực hiện quy định mới, cán bộ quản lý, giáo viên không tránh khỏi có những bỡ ngỡ, khó khăn. Việc giúp các thầy cô hiểu và thực hiện tốt quy định về kiểm tra, đánh giá mới chính là mục đích của chương trình giao lưu này.
Độc giả có thể gửi các câu hỏi tới các vị khách mời qua form dưới đây, hoặc gửi email của Báo Giáo dục và Thời đại: gdtddientu@gmail.com, hoặc tương tác qua facebook của Báo www.fb.com/giaoducthoidai.
Bà Nguyễn Thị Thúy
Tổ trưởng tổ Xã hội, Trường THCS Lương Yên, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.
ThS. Lê Thị Hoàng Hà
Trưởng bộ môn Đánh giá trong Giáo dục, khoa Quản trị chất lượng, Trường ĐH Giáo dục, ĐH Quốc gia Hà Nội.
Ông Lê Việt Dương
Hiệu trưởng Trường THPT Trương Định, Quận Hoàng Mai, Hà Nội.
ThS. Lê Thị Hoàng Hà
Chúng ta hiểu mục đích của khen thưởng là để làm gì? Có phải là để khích lệ học sinh học tập và rèn luyện? Vậy tại sao chúng ta lại phải hạn chế khen thưởng. Tôi nghĩ rằng, nếu kiểm tra đánh giá chính xác và đưa lại những thông tin, kết quả đánh giá nhận xét, phản hồi xác đáng thì chúng ta hoàn toàn có thể khen thưởng học sinh dựa trên kết quả đánh giá đó.
Giáo dục và dạy học không thể tách rời việc tạo điều kiện cho học sinh phát huy những mặt mạnh của mình. Khen thưởng theo lĩnh vực chính là 1 điểm mới rất nhân văn và đúng đắn, bởi học sinh được khuyến khích phát triển mặt mạnh của bản thân.
Bạn kimthoa......@gmail.vn:
ThS. Lê Thị Hoàng Hà
Tất cả vì sự tiến bộ của học sinh, mỗi chúng ta đều cần cố gắng để thay đổi. Một hành động đúng đắn thì phải bắt nguồn từ 1 thái độ đúng đắn. Nếu giáo viên hiểu rõ ý nghĩa của đánh giá bằng nhận xét thì tôi nghĩ rằng chắc chắn giáo viên sẽ thực hiện nó một cách có trách nhiệm.
Bạn Thanh Hà, Hòa Bình:
Bà Nguyễn Thị Thúy
Điểm mới này giúp cho học sinh và phụ huynh thấy được rõ hơn năng lực và toàn bộ quá trình học tập của học sinh (sự chuyển biến dù là tích cực hay hạn chế theo từng thời điểm). Người học sẽ nhận thấy được những khả năng, điểm mạnh của bản thân một cách cụ thể để phát huy và những điểm yếu để khắc phục. Từ những lời đánh giá đi kèm điểm số, học sinh và CMHS có thể định hướng nghề nghiệp cho các em một cách phù hợp dựa vào kết quả đánh giá của giáo viên.
Đối với giáo viên, điểm mới này sẽ buộc mỗi người phải sát sao với học sinh hơn trong quá trình theo dõi, kiểm tra thường xuyên. Từ đó, hiểu rõ hơn về năng lực của các em để đánh giá cho đúng, động viên được học sinh nỗ lực phát huy năng lực của mình và cố gắng khắc phục những hạn chế (nếu có).
Bạn Quốc Hữu, Thanh Hóa:
ThS. Lê Thị Hoàng Hà
Đây là việc cần thiết, không thể không làm. Bởi vì, nhận xét, phản hồi là yếu tố trung tâm của kiểm tra, đánh giá. Không có nhận xét, phản hồi thì kiểm tra, đánh giá sẽ mất đi ý nghĩa quan trọng nhất của nó, đó là vì sự tiến bộ của người học.
Bạn Nguyễn Hòa, Quảng Ninh:
ThS. Lê Thị Hoàng Hà
Theo cách hiểu của tôi, thực ra đây không phải là 1 yêu cầu bắt buộc. Nếu nhà trường hay mỗi giáo viên có điều kiện thực hiện kiểm tra, đánh giá trên máy tính thì kết quả này cũng được chấp nhận. Đây cũng là 1 cơ hội tự chủ trong kiểm tra, đánh giá cho giáo viên và nhà trường.
Kiểm tra, đánh giá trên máy tính có thể được hiểu là: nhà trường có các phần mềm kiểm tra đánh giá chuyên biệt; hoặc giáo viên sử dụng các nền tảng hỗ trợ kiểm tra, đánh giá có sẵn trên Internet. Để thực hiện được điều này thì nhà trường cần phát huy sức mạnh tập thể của các bộ môn; có kế hoạch tập hợp, lưu trữ và chuẩn hóa hệ thống câu hỏi và nhiệm vụ kiểm tra, đánh giá; tạo môi trường làm việc chia sẻ nguồn lực để giáo viên có thể chia sẻ và hỗ trợ lẫn nhau thực hiện các hoạt động kiểm tra, đánh giá này. Nếu có điều kiện thì nhà trường có thể đầu tư thêm về cơ sở vật chất, hệ thống máy tính kết nối mạng internet tốc độ ổn định, mua các phần mềm hỗ trợ kiểm tra, đánh giá; tổ chức tập huấn cho giáo viên hay các hội thảo xemina chia sẻ về kinh nghiệm sử dụng các nền tảng hỗ trợ kiểm tra, đánh giá trên internet.
Bạn Bình An, Khánh Hòa:
Bà Nguyễn Thị Thúy
Cảm ơn bạn, có lẽ tôi và các đồng nghiệp đều mong muốn được chia sẻ, học hỏi các đồng nghiệp nhiều hơn để nâng cao chuyên môn trong việc tổ chức, đa dạng các hình thức dạy học.
Các nhà trường được đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị để phục vụ tốt hơn cho việc đa dạng các hoạt động dạy và học và đáp ứng đổi mới kiểm tra đánh giá.
Ban giám hiệu tạo điều kiện cho GV được học hỏi, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ chuyên môn trong suốt quá trình thực hiện đổi mới kiểm tra đánh giá. Như vậy, GV chúng tôi có thể làm tốt nhất công việc của mình.
Bạn Hà Thu Hạnh, Lạc Long Quân, Tây Hồ, Hà Nội:
Ông Lê Việt Dương
Hình thức này đã được phát triển trong thời gian vừa qua, qua nhiều nội dung hoạt động trong nhà trường, cả trong chuyên môn và sinh hoạt tập thể nên HS đã nắm được phương pháp thực hiện.
Vì vậy, việc áp dụng hình thức này không khó khăn, trở ngại với GV nhất là khi thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, tăng cường mô hình dạy học nhóm, hoạt động nhóm cho HS.
Với hình thức làm việc nhóm đòi hỏi HS phải có kế hoạch cụ thể từ phân công nhân sự đến nội dung làm việc. Kế hoạch của nhóm cộng với kết quả thực hiện được sẽ là cơ sở để GV đánh giá một cách toàn diện chứ không chỉ dừng lại ở đo lường.
Giáo viên có thể đánh giá được ý thức học tập, sự sáng tạo cũng như khích lệ hoạt động làm việc nhóm của HS.
Cách làm này rất phù hợp với việc đổi mới, đánh giá, nhận xét HS. Đặc biệt, là tiếp cận hiện quả với việc đổi mới căn bản GD-ĐT, đáp ứng chương trình GD phổ thông mới.
Bạn Vĩnh Tâm, Hà Nội:
Bà Nguyễn Thị Thúy
Thực hiện đổi mới trong kiểm tra đánh giá (với những nội dung đã được triển khai) đã phát huy hiệu quả cao trong thực tế giảng dạy tại trường THCS Lương Yên cả về phía GV và HS.
Đối với HS: Đã chủ động, tự giác, hứng thú học tập. Đặc biệt hứng thú với các hình thức học tập theo dự án, trải nghiệm thực tế, làm sản phẩm,…
Các em cũng đoàn kết, mạnh dạn, tự tin hơn, khả năng làm việc nhóm tốt hơn. Kết quả học tập được nâng lên đáng kể.
Đặc biệt, bước đầu nhiều em đã định hướng được nghề nghiệp tương lai.
Đối với GV: GV hiểu rõ hơn năng lực sở trường của từng HS trong quá trình dạy học. GV đã tích cực tìm tòi nghiên cứu học hỏi để nâng cao phương pháp dạy học. Đưa ra nhiều hình thức tổ chức các hoạt động học tập phong phú tạo hứng thú cho HS.
Bạn Lệ Quyên, Hồ Chí Minh:
ThS. Lê Thị Hoàng Hà
Một số kỹ năng quan trọng mà giáo viên cần phải chủ động tìm hiểu và làm chủ để có thể thực hiện tốt những quy định mới về kiểm tra, đánh giá, đó là:
Kỹ năng phản hồi: Muốn nhận xét, phản hồi hiệu quả, bản thân giáo viên phải lập được hệ thống mục tiêu dạy học và tiêu chí đánh giá chi tiết, cụ thể và có kế hoạch dạy học bám sát mục tiêu dạy học, tiêu chí đánh giá.
Kỹ năng xây dựng các công cụ đánh giá hoạt động hay sản phẩm học tập của người học: Rõ ràng, hình thức kiểm tra đánh giá đa dạng không chỉ giới hạn ở những bài kiểm tra viết mà chuyển sang đánh giá theo dự án, thực hành, thí nghiệm… giáo viên rất cần kỹ năng xây dựng các hoạt động đánh giá này.
Kỹ năng xây dựng các công cụ để hỗ trợ đánh giá hoạt động hay sản phẩm: Một số công cụ phổ biến như: bảng kiểm, thang đánh giá, rubric đánh giá.
Kỹ năng sử dụng các hoạt động kiểm tra, đánh giá trên lớp học: Trong khoa học đo lường và đánh giá, chúng tôi có thuật ngữ “kiểm tra đánh giá trên lớp học”. Thực chất đây là những kỹ thuật lấy nền tảng là kiểm tra, đánh giá; nhưng mục đích của nó là sử dụng như những hoạt động dạy học. Giáo viên có thể khai thác các kỹ thuật này để cung cấp thông tin phản hồi cho học sinh.
Bạn Ngọc Hà, Hải Dương:
Bà Nguyễn Thị Thúy
Theo tôi được biết, Bộ GD&ĐT đã triển khai bồi dưỡng, tập huấn cho đội ngũ GV cốt cán về công tác đổi mới kiểm tra đánh giá.
Đối với GV, chúng tôi mong muốn mỗi người cần được tập huấn, hướng dẫn thống nhất trong việc xây dựng và sử dụng ma trận, đặc tả bài kiểm tra giữa kỳ/cuối kỳ cho các môn học; đảm bảo chuẩn đánh giá các bài kiểm tra này theo mức độ cần đạt của môn học, thống nhất trong toàn quốc.
Về phía các nhà trường cần triển khai và hướng dẫn cụ thể cho GV việc đổi mới KTĐG; tạo điều kiện hỗ trợ cho GV thực hiện các hoạt động dạy học, đa dạng các hình thức tổ chức hoạt động nhằm phát huy năng lực học sinh.
Bà Nguyễn Thị Thúy
Bạn Hoangvinhxb@gmail.com:
Ông Lê Việt Dương
Việc đánh giá HS toàn diện đòi hỏi HS phải học tập và hoạt động toàn diện cũng như phát triển được năng lực cá nhân.
Việc học thêm hiện nay đôi khi còn do những mong mỏi cá nhân HS hoặc gia đình. Còn việc học thêm tràn lan thì dù đánh giá như thế nào vẫn cần lên án và loại trừ.
Tuy vậy, có sự chuyển biến nhất định về các yêu cầu của giai đoạn học tập tiếp theo hoặc công việc sau này chú trọng đến phẩm chất và năng lực thực sự của HS sẽ tác động đến nhận thức của HS và gia đình. Từ đó, không có cơ hội cho việc học thêm tràn lan tồn tại. Không có cầu thì ắt sẽ không có cung.
Bạn Mạnh Tuấn, Khánh Hòa:
ThS. Lê Thị Hoàng Hà
Như đã nói ở trên, chúng ta giảm số đầu điểm, nhưng chúng ta không giảm số lần kiểm tra, đánh giá thường xuyên; thậm chí, giáo viên còn được chủ động quyết định về kiểm tra, đánh giá thường xuyên.
Thái độ học tập và động lực học tập của học sinh thực chất không đến từ điểm số mà đến từ sự phản hồi, động viên, khích lệ kịp thời của giáo viên. Như vậy, tại sao chúng ta lại không hạn chế số lần đánh giá thường xuyên? Là bởi vì chúng ta mong muốn học sinh sẽ nhận được nhiều hơn những sự phản hồi kịp thời từ giáo viên thông qua kết quả kiểm tra, đánh giá.
Bạn nguyendon........@gmail.com:
ThS. Lê Thị Hoàng Hà
Một số ứng dụng hay nền tảng đánh giá trực tuyến mà thầy cô có thể khai thác một cách thường xuyên hoàn toàn miễn phí trên mạng internet như: Quizziz, Formative, Kahoot!, Menti… hoặc ngay cả Google Form giáo viên cũng có thể khai thác sử dụng.
Tuy nhiên, cần lưu ý đây chỉ là những tiện ích giúp đánh giá nhanh, cung cấp phản hồi nhanh, chủ yếu sử dụng các câu trắc nghiệm khách quan hoặc câu trả lời ngắn. Vì vậy, chúng ta chỉ nên sử dụng nó như những công cụ để hỗ trợ dạy học; vừa cung cấp phản hồi nhanh, vừa thay đổi không khí lớp học, tạo động lực cho người học. Các nền tảng này không yêu cầu quá cao về thiết bị, chỉ cần học sinh có smartphone hoặc nhà trường có phòng máy tính kết nối mạng internet. Giáo viên cần tích lũy và có ngân hàng câu hỏi chuẩn bị sẵn các bài kiểm tra, đánh giá. Mặc dù ngôn ngữ sử dụng trên các trang này đều bằng tiếng Anh nhưng tôi tin nó không quá khó đối với giáo viên. Thầy cô chỉ cần sử dụng vài lần là có thể làm chủ được.
Bạn Tuấn Vinh, Nghệ An:
Bà Nguyễn Thị Thúy
Theo tôi, trong bất kỳ sự đổi mới nào của ngành giáo dục thì GV cũng là những người "tiên phong" vì vậy việc đầu tư thời gian, tâm sức, kiến thức, kinh nghiệm... là điều tất yếu để GV thực hiện tốt yêu cầu, nhiệm vụ của mình.
Với đổi mới kiểm tra đánh giá, GV sẽ phải vất vả hơn trong việc tự học, tích lũy kiến thức, trau dồi, tìm tòi, sáng tạo các hình thức tổ chức dạy học nhằm phát huy được năng lực học sinh, đặc biệt là đối với những GV có tuổi thì việc ứng dụng những phần mềm dạy học, kiểm tra, CNTT... có vất vả hơn so với giáo viên trẻ.
Trong đó tôi nhấn mạnh yếu tố tự học. Ví dụ trong thời gian dạy học trực tuyến do dịch Covid-19, nhiều GV từ chỗ trình độ CNTT còn non yếu đã trở nên vững vàng và hiểu biết rất nhiều, nhanh chóng nhờ vào việc bắt buộc phải tự học hỏi để có thể đáp ứng việc dạy trực tuyến cho HS.
Bạn Dungtamanh@gmail.com:
Ông Lê Việt Dương
Trong đánh giá thì các số liệu nhận được qua đo lường là một điều không thể bỏ qua. Tuy vậy, việc đo lường chỉ là các thông số, tiêu chí đánh giá. Việc đo lường có các nguyên tắc về đo lường nên mục tiêu là số liệu hóa những mặt có thể đo lường được.
Vì vậy, để đánh giá toàn diện thì đo lường vẫn có thể tiếp tục thực hiện theo các mục đích hiện nay và kết hợp với các mặt khác trong đánh giá sức khỏe, kĩ năng sống, lý tưởng sống của HS thì việc đánh giá, nhận xét sẽ đem lại kết quả cần thiết và động viên được HS.
Bạn thuylinh...@gmail.com:
ThS. Lê Thị Hoàng Hà
Theo cách hiểu của tôi, theo quy định về kiểm tra, đánh giá mới, giáo viên chủ nhiệm sẽ có nguồn thông tin chi tiết hơn về học sinh để có thể ghi những nhận xét về học sinh khi tổng kết cuối học kỳ, hay tổng kết cuối năm học. Bởi vì, các giáo viên bộ môn đã cung cấp nhận xét về học sinh bên cạnh điểm số.
Bạn thaianh@gmail.com:
Bà Nguyễn Thị Thúy
Bản thân tôi cho rằng sự đổi mới trong kiểm tra đánh giá HS vô cùng cần thiết trong bối cảnh toàn ngành giáo dục thực hiện triển khai CTGDPT 2018.
Ngoài những lợi ích mà tôi đã khẳng định trong những phần trả lời trước thì:
Đánh giá năng lực chỉ bằng điểm số sẽ không thể hiện hết được kết quả của một quá trình học tập và chiều hướng phát triển của HS.
Đổi mới kiểm tra đánh giá còn giúp định hướng nghề nghiệp tương lai cho HS; HS không áp lực, không cảm thấy nặng nề với việc học tập.
HS có nhiều cơ hội trải nghiệm và sáng tạo, đồng thời GV cũng năng động và có góc nhìn, cách đánh giá đa chiều về HS hơn.
Bạn Tuyết Anh, huyện Đan Phượng, Hà Nội:
Ông Lê Việt Dương
Việc phụ huynh phối hợp với GV để đánh giá HS là điều cần thiết nhất là trong vấn đề rèn luyện đạo đức, theo dõi sự tiến bộ của HS. Điều này, GV sẽ thường xuyên cập nhật để phối hợp với cha mẹ HS, không nhất thiết phải vào thời điểm đánh giá định kỳ.
Thêm sự phối hợp trong đánh giá HS của phụ huynh HS một cách đúng đắn thì công tác đánh giá quá trình phấn đấu của HS sẽ toàn diện hơn.
Bạn bahai@gmail...:
ThS. Lê Thị Hoàng Hà
Thông tư 26 quy định có 2 loại kiểm tra, đánh giá: kiểm tra đánh giá thường xuyên và kiểm tra đánh giá định ký. Trong đó, kiểm tra đánh giá định kỳ gồm 2 điểm: kiểm tra đánh giá giữa kỳ và kiểm tra đánh giá cuối kỳ.
Thông tư 26 cũng quy định cả đánh giá thường xuyên lẫn đánh giá giữa kỳ đều có thể sử dụng đa dạng các loại hình kiểm tra, đánh giá. Kiểm tra, đánh giá thường xuyên được thực hiện theo hình thức trực tiếp hoặc trực tuyến thông qua: hỏi - đáp, viết, thuyết trình, thực hành, thí nghiệm, sản phẩm học tập. Kiểm tra, đánh giá định kì, gồm kiểm tra, đánh giá giữa kì và kiểm tra, đánh giá cuối kì, được thực hiện thông qua: bài kiểm tra (trên giấy hoặc trên máy tính), bài thực hành, dự án học tập.
Như vậy, chúng ta sẽ không còn đầu điểm gọi là kiểm tra “1 tiết” (theo như cách hiểu của Thông tư 58); nhưng trên thực tế, bài kiểm tra 1 tiết cũng là 1 hình thức đánh giá. Vì vậy, giáo viên vẫn hoàn toàn có thể chủ động sử dụng như một bài đánh giá thường xuyên, hoặc định kỳ.
Cụ thể, Thông tư 26 có viết: “Kiểm tra, đánh giá thường xuyên được thực hiện theo hình thức trực tiếp hoặc trực tuyến thông qua: hỏi - đáp, viết, thuyết trình, thực hành, thí nghiệm, sản phẩm học tập”. Rõ ràng chúng ta nhìn thấy quy định về hình thức kiểm tra “viết” và không quy định cụ thể về thời gian của bài kiểm tra viết. Như vậy, tùy vào nhu cầu kiểm tra, đánh giá, giáo viên xác định thời gian cho phù hợp.
Về kiểm tra, đánh giá định kỳ, Thông tư 26 quy định: “Thời gian làm bài kiểm tra, đánh giá định kì bằng bài kiểm tra trên giấy hoặc trên máy tính từ 45 phút đến 90 phút, đối với môn chuyên tối đa 120 phút”.
Bạn Phạm Hòa, quận Ba Đình, Hà Nội:
Ông Lê Việt Dương
Các tiêu chí đạo đức và rèn luyện cũng sẽ được cụ thể hóa qua từng hoạt động của HS trong các hoạt động chung của lớp, của trường.
Vì các hoạt động của HS đều theo kế hoạch, nội dung, yêu cầu cụ thể như: thực hiện nghiêm nội quy, chuyên cần trong học tập và rèn luyện, cũng như có ý thức tham gia hoạt động tập thể, bảo vệ của công…
Bạn thuylinh257@gmail.com:
Bà Nguyễn Thị Thúy
HS đảm bảo hoàn thành bài kiểm tra theo chuẩn kiến thức kĩ năng đã được học.
GV dù là ở vùng miền nào cũng đều căn cứ vào chuẩn kiến thức kĩ năng để ra đề và đánh giá kết quả học tập của HS
Cách làm này đánh giá sát thực hơn việc học tập của học sinh và tạo công bằng cho học sinh giữa các lớp, các trường, các vùng miền (vì đề căn cứ vào chuẩn kiến thức kĩ năng, mức độ cần đạt của môn học/hoạt động giáo dục).
Bạn Ngọc Dung, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội:
Ông Lê Việt Dương
Với cách đánh giá mới và những công việc làm hàng ngày của GV trong đánh giá, nhận xét HS qua mỗi tiết học cho thấy việc đánh giá định kỳ sẽ không còn là việc đo lường hay là những con số.
Cùng với các mặt cần đánh giá như kiến thức, kĩ năng và sự tiến bộ thì việc đánh giá đã vượt xa việc đo lường và đem lại nhiều ý nghĩa với việc học tập cũng như hoạt động của HS trong các giai đoạn học tập tiếp theo.
Bạn Thanh Hằng, Hà Nội:
Bà Nguyễn Thị Thúy
Cảm ơn bạn đã quan tâm đến việc dạy và học tại trường THCS Lương Yên chúng tôi.
Trường THCS Lương Yên đã tiếp thu và triển khai đổi mới về PPDH đồng thời với đổi mới kiểm tra đánh giá (KTĐG) từ mấy năm gần đây. Việc các thầy cô giáo và HS các khóa học đạt nhiều giải cấp Bộ trong cuộc thi “Dạy học theo chủ đề tích hợp dành cho GV trung học”, “Vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết tình huống thực tiễn” là minh chứng rõ nét nhất.
Hiện nay, các tổ nhóm chuyên môn đã và đang vận dụng việc đổi mới này, như tổ chức dạy học theo hình thức dự án, dạy học theo chủ đề học tập, bài tập thực hành, bài tập vận dụng thực tiễn, học tập trải nghiệm (bảo tàng Lịch sử), Stem… và đều có đánh giá, động viên và rút kinh nghiệm cho HS đồng thời với đánh giá bằng điểm số.
Trên lớp học, các thầy cô rất linh hoạt với từng đối tượng học sinh, có thể KTĐG ở nhiều thời điểm trong tiết dạy, nhận xét động viên và uốn nắn kịp thời, … để hỗ trợ HS được phát huy năng lực học tập của mình.
Bạn Vantran1986@gmail.com:
Ông Lê Việt Dương
Để tránh khen thưởng tràn lan cần đưa ra các mặt đánh giá một cách cụ thể, trong mỗi mặt có những tiêu chí, mức độ rõ ràng để GV nhận diện rõ được hoạt động của GV. Từ đó, GV đưa ra được những nhận xét phù hợp với cá nhân từng HS, nghĩa là mỗi HS được nhận xét, đánh giá đúng với hoạt động của mình.
Việc khen thưởng HS theo các mặt như vậy sẽ công bằng, khách quan, khích lệ HS phấn đấu trong học tập và rèn luyện.
Bạn Giabinh@gmail.com:
Bà Nguyễn Thị Thúy
Không thể khẳng định HS sẽ hứng thú với một hình thức nào vì mỗi HS có sở trường và năng lực khác nhau. HS nào có thế mạnh về hình thức nào thì sẽ hứng thú hơn với hình thức đó.
Vậy nên mới cần đổi mới để phát huy được khả năng và sở trường của HS trong quá trình học tập. Đồng thời cũng tạo cho học sinh hình thành nhiều phẩm chất và năng lực khác nhau trong quá trình học tập.
Thực tế, trong quá trình dạy học dự án tại trường THCS Lương Yên (Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội) cho thấy nhiều HS hứng thú với việc làm sản phẩm thông qua trải nghiệm thực tế nhưng cũng không ít HS vẫn hào hứng với những hình thức kiểm tra truyền thống như viết ngắn, làm bài kiểm tra trên giấy...
Bạn Đỗ Thanh Mai, quận Long Biên, Hà Nội:
Ông Lê Việt Dương
Mọi công việc đều có nguyên tắc chung và mọi người đều phải thực hiện theo nguyên tắc đó. Tuy vậy, với đặc thù của giáo dục, đối tượng là con người, nên kinh nghiệm của GV cũng là một điều cần thiết. Do vậy, việc thực hiện theo nguyên tắc chung và kết hợp với sự tâm huyết, trách nhiệm, kinh nghiệm công tác sẽ giúp GV đưa ra được sự đánh giá đúng đắn, tạo hiệu ứng khích lệ HS.
Ở đây, chúng ta cần phân biệt giữa kinh nghiệm và thói quen để việc đánh giá đảm bảo đúng quy định và đạt hiệu quả.
Bạn Ngọc Dinh, Nam Định:
ThS. Lê Thị Hoàng Hà
Chúng ta có thể nhìn thấy 2 điểm thay đổi lớn nhất của hoạt động kiểm tra, đánh giá được quy định trong Thông tư 26 so với Thông tư 58.
Thứ nhất là chúng ta cho điểm số kết hợp với nhận xét. Thứ 2 là giáo viên chủ động hơn trong hoạt động kiểm tra, đánh giá; giáo viên có nhiều sự tự chủ trong lựa chọn và quyết định hình thức đánh giá, cũng như số lần kiểm tra đánh giá trong một học kỳ. Ngoài 2 bài kiểm tra định kỳ và kiểm tra giữa kỳ và kiểm tra cuối kỳ thì giáo viên không bị giới hạn bởi số lần kiểm tra đánh giá thường xuyên. Từ các bài đánh giá thường xuyên, giáo viên được chủ động lựa chọn những bài sẽ lấy vào điểm tổng kết.
Đi sâu một chút vào điểm này, chúng ta sẽ thấy kiểm tra đánh giá như vậy là vì người học; vì người học có nhiều cơ hội để tự nhìn lại năng lực của mình và cũng từ đó có kế hoạch phấn đấu để có thể đạt kết quả học tập cao nhất trong khả năng của mình. Việc thường xuyên được đánh giá và nhận nhận xét phản hồi từ giáo viên sẽ làm cho học sinh không còn sợ kiểm tra mà thấy kiểm tra thực chất giúp mình tiến bộ. Như vậy, Thông tư 26 không chỉ chú trọng kiểm tra, đánh giá năng lực của người học mà còn kiểm tra, đánh giá vì sự phát triển của người học – đây là mục đích cuối cùng của kiểm tra, đánh giá.
Bạn tuedang@gmail.com:
Bà Nguyễn Thị Thúy
Theo chủ quan của tôi, HS ở những địa phương đã tham gia học trực tuyến có thể đáp ứng được việc kiểm tra trên máy tính. Việc này đã được chứng minh qua hoạt động ôn tập kiến thức bằng hình thức trắc nghiệm đối với HS lớp 8,9 trên trang Web Study 7 môn văn hóa. Mặt khác, trong thời gian học trực tuyến các em đã được làm nhiều bài kiểm tra trên máy tính do giáo viên giao. Như vậy đã có sự làm quen, thậm chí nhiều HS đã thành thạo. Các em đã thể hiện rất tốt.
Tất nhiên quá trình triển khai sẽ không tránh được những khó khăn nhất định như:
Nhiều trường chưa có đủ phòng máy và đường truyền internet ổn định cho HS dùng.
Một số gia đình chưa có điều kiện trang bị cho HS những thiết bị, máy tính cần thiết nên các em sẽ gặp khó khăn trong quá trình thao tác. Hoặc đường truyền internet không ổn định, đến phần nộp bài thì một số em bị lỗi mạng,… Những khó khăn này cũng ảnh hưởng tới tâm lí và kết quả làm bài của HS.
Bạn Hoaianhgtvt@gmail.com:
Ông Lê Việt Dương
Thực tế này có ở một số nơi và diễn ra với một số GV. Lãnh đạo nhà trường ngay từ đầu năm học cần đặt ra yêu cầu với các tổ bộ môn xây dựng các yêu cầu, mục đích và hình thức kiểm tra, đánh giá chung cho tập thể bộ môn.
Căn cứ theo đó, GV xây dựng các bài kiểm tra, đánh giá. Các đề kiểm tra, đánh giá của GV đều được lưu lại và được lãnh đạo nhà trường xem xét để đảm bảo các nội dung thống nhất trong trường, tổ nhóm bộ môn.
Bạn Hoàng Vân, Quốc Oai, Hà Nội:
Ông Lê Việt Dương
Đánh giá về kiến thức cần tiêu chí vận dụng, phát triển; về kĩ năng, HS cần biết vận dụng tư duy bộ môn. Nhận xét cần dựa vào sự tiến bộ của HS sau mỗi lần đánh giá để thấy được sự thay đổi của HS qua các giai đoạn học.
Việc đánh giá là xác nhận kết quả của quá trình làm việc, nhưng với HS thì qua đó còn nhận được chia sẻ về quá trình làm việc trước đó. GV nhận xét và khích lệ những việc HS đã làm được để động viên và hợp tác hướng tới các giai đoạn học tập tiếp theo.
Bạn Đăng Chung, Thái Bình:
ThS. Lê Thị Hoàng Hà
Như thế nào là dạy học và kiểm tra đánh giá năng lực người học? Chúng ta cần hiểu năng lực có nghĩa là khả năng thực hiện một nhiệm vụ của học sinh; hay nói cách khác, năng lực là việc huy động kiến thức, kỹ năng và thái độ nhằm thực hiện một hoạt động một cách hiệu quả.
Nói như vậy có nghĩa là, những gì mà nền giáo dục của chúng ta đang làm không phải là không phát triển năng lực cho người học. Chỉ có điều, chúng ta đang quá đặt nặng việc truyền thụ và tiếp nhận tri thức. Kiểm tra, đánh giá phát triển năng lực người học có nghĩa là chúng ta cần phải tăng cường đánh giá năng lực thực hiện thông qua việc giao các nhiệm vụ học tập dưới dạng các hoạt động, để từ đó tập trung vào đánh giá hoạt động và sản phẩm học tập của người học. Các hình thức đánh giá mà giáo viên đã và đang thực hiện vẫn có ý nghĩa, bởi nó vẫn đánh giá các khía cạnh khác nhau của năng lực.
Tóm lại, chúng ta phải đa dạng hóa hình thức và mục tiêu đánh giá. Bên cạnh các năng lực chuyên biệt gắn với tình huống học, chúng ta phải đánh giá cả những năng lực chung: hợp tác, làm việc nhóm, tư duy phản biện... Kiểm tra, đánh giá nhằm phát triển năng lực người học chỉ có thể thực hiện hiệu quả khi giáo viên triển khai dạy học hướng tới các mục tiêu dạy học đa dạng.
Bạn Phúc Khang, Hà Tĩnh:
Bà Nguyễn Thị Thúy
Theo tôi, việc đổi mới kiểm tra, đánh giá theo định hướng phát triển phẩm chất năng lực của người học có thể được coi như động lực, thúc đẩy HS thể hiện hết sở trường, năng lực.
Nguyên nhân như tôi đã trình bày. Mặt khác, mỗi học sinh có những năng lực, thế mạnh không giống nhau. Nếu chỉ kiểm tra đánh giá một kiểu, theo lối truyền thống (VD: chỉ đánh giá khả năng viết, trình bày trên giấy...) thì những HS có năng lực thuyết trình, sử dụng CNTT, làm dự án,… sẽ không phát huy được sở trường và năng lực của mình, kết quả học tập sẽ không được được ghi nhận.
Việc kiểm tra, đánh giá theo định hướng phát triển phẩm chất năng lực của người học giúp các em được phát huy thế mạnh, sở trường của mình. Từ đó khiến HS có sự say mê, hứng thú học tập. Một HS có sở trường là tạo lập văn bản viết rất tốt nhưng lại hạn chế về khả năng thuyết trình hoặc ngược lại thì việc đổi mới kiểm tra đánh giá lần này sẽ giúp HS được ghi nhận và thể hiện tất cả những năng lực, sở trường vốn có của bản thân.
Bạn Hữu Hiếu, Trung tâm giáo dục cộng đồng Sóc Sơn, Hà Nội:
Ông Lê Việt Dương
Việc đánh giá lẫn nhau giữa các HS chính là một phương pháp không chỉ để đánh giá một HS mà chính là để HS khi đánh giá bạn cũng đã tự đánh giá mình và hoàn thiện các kiến thức của bản thân. Điều này vẫn được các GV thực hiện thường xuyên trong các giờ dạy trên lớp như một phần không thể thiếu trong quá trình tổ chức dạy học.
Bạn hongha489@gmail.com:
Bà Nguyễn Thị Thúy
Theo tôi những điều này thực ra trong quá trình dạy học từ trước đến nay GV đã làm. GV thường xuyên nhận xét, đánh giá về sự tiến bộ, hành vi và kết quả học tập của HS qua những bài kiểm tra, qua sự trao đổi giữa GV bộ môn và GVCN, giữa GV và CMHS. Tuy nhiên những đánh giá này chỉ là đánh giá miệng hoặc qua tin nhắn điện tử, và chủ yếu là nhận xét của GVCN chứ chưa có ghi thường xuyên thành một hệ thống khái quát trong hồ sơ học sinh ở từng môn học.
Vậy nên tôi khẳng định quy định này không gây khó khăn cho GV và HS trong quá trình thực hiện.
Tuy nhiên với một số trường chưa sử dụng hồ sơ điện tử thì giáo viên sẽ mất thời gian để viết tay vào hồ sơ của học sinh điều đó sẽ khiến giáo viên vất vả hơn một chút.
Bạn Hoainamfpt@gmail.com:
Ông Lê Việt Dương
Trong thời gian vừa qua, việc dạy và học môn Ngoại ngữ đã được chú trọng và đổi mới nhiều, nhất là trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay.
Mặt khác, việc học các môn học đều được tiến hành theo các yêu cầu chuyên môn là như nhau nên việc đánh giá cũng sẽ có các yêu cầu tương đương, có chăng là khác nhau về hình thức đánh giá hoặc số lần đánh giá thường xuyên. Nên không chỉ môn Ngoại ngữ mà tất cả các môn học đều cần được đánh giá với các yêu cầu trên theo các hình thức đã quy định.
Bạn Thyvan89@gmail.com:
Ông Lê Việt Dương
Khi có quy định mới thì các GV cũng cần có phương án cập nhật về đánh giá, nhận xét sau mỗi tiết dạy để tiến hành đánh giá theo quy định. Thực tế, GV đã thực hiện việc đánh giá HS qua từng tiết học trên cơ sở những tiêu chí được đề ra - dẫn đến việc GV đánh giá theo kì, theo nội dung các mặt của HS không khó khăn, không bị chung chung, góp phần khích lệ, động viên HS phấn đấu trong học tập và rèn luyện.
Bạn Ngọc My, Sóc Trăng:
ThS. Lê Thị Hoàng Hà
Đưa người học tham gia vào hoạt động kiểm tra, đánh giá là việc làm rất có ý nghĩa, nhằm phát triển sự chủ động học tập của người học. Bởi vì, khi được tự đánh giá bản thân, học sinh sẽ có cảm giác mình làm chủ hoạt động học tập, không học một cách đối phó.
Chúng ta phải hiểu, tham gia vào hoạt động kiểm tra đánh giá không đơn thuần chỉ là đánh giá, mà còn có thể bao gồm cả việc cùng thầy cô và bạn học xây dựng các mục tiêu, tiêu chí đánh giá; đánh giá bạn học; hay tự nhìn vào mục tiêu, tiêu chí mà giáo viên cung cấp để từ đó tự đánh giá sản phẩm học tập của mình.
Một số cách đơn giản để lôi cuốn người học vào hoạt động kiểm tra, đánh giá là: cùng thảo luận với học sinh về mục tiêu, tiêu chí đánh giá; cung cấp tiêu chí đánh giá cùng lúc với khi giao nhiệm vụ học tập cho học sinh; yêu cầu học sinh tự đánh giá và cho điểm sản phẩm học tập của mình trước khi nộp bài; yêu cầu học sinh trong cùng nhóm học tập đánh giá lẫn nhau dựa trên các tiêu chí đã thống nhất.
Nếu giáo viên có thể sử dụng các hệ thống học tập trực tuyến thì một cách đơn giản là tạo các chủ đề thảo luận trên diễn đàn để học sinh cùng tham gia thảo luận.
Bạn Bảo Yên, Hòa Bình:
Bà Nguyễn Thị Thúy
Với câu hỏi của bạn tôi xin trả lời như sau: Việc học sinh được đánh giá nhiều lần, bằng nhiều hình thức khác nhau sẽ giúp các em có nhiều cơ hội để thể hiện phẩm chất, năng lực của bản thân. Và tất nhiên điểm mới này vô cùng có lợi cho các em.
Mỗi học sinh có những năng lực, thế mạnh không giống nhau. Vì vậy việc học sinh được đánh giá nhiều lần bằng nhiều hình thức khác nhau mang lại cho các em nhiều cơ hội được trải nghiệm, thể hiện những thế mạnh của mình.
Có em có năng lực thuyết trình, có em có năng lực viết, có em có năng lực trình bày bằng hình ảnh, CNTT, có em có năng lực nghiên cứu, làm sản phẩm,… Tất cả năng lực của học sinh đều được ghi nhận và đánh giá theo tinh thần đổi mới này. Theo đó, học sinh sẽ say mê, thích thú và nâng cao kết quả học tập hơn.
Giảm áp lực cho học sinh (khi phải thực hiện những hình thức kiểm tra mà mình không thể hiện được sở trường, năng lực)
Hình thức kiểm tra mới đã tạo điều kiện cho học sinh tự học, tự nghiên cứu và hoạt động tổ nhóm linh hoạt trong trường và ngoài trường hiệu quả.
Bạn Phan Hương, huyện Sóc Sơn, Hà Nội:
Ông Lê Việt Dương
Kiểm tra, đánh giá là nhằm thu nhận kết quả học tập của HS sau một thời gian, ít bài đánh giá sẽ kéo dài thời gian làm việc và khối lượng cần đánh giá, nhưng đó chỉ là việc cần đưa ra dưới dạng 1 điểm số. Thực chất việc nhận xét hay quan sát để nắm được việc học tập của HS thì GV vẫn làm trong từng tiết học dưới các hình thức khác nhau và tại mọi thời điểm trong quá trình giảng dạy trên lớp.
Bạn Tú Anh, huyện Gia Lâm, Hà Nội:
Ông Lê Việt Dương
Các nội dung, kiến thức bài học đã chính là các yêu cầu học tập nên HS đã biết cần phải nắm được những điều gì qua học tập hàng ngày. Vì vậy, việc công bố hay không về tiêu chí cũng không quan trọng, bởi đó chỉ còn là việc để xây dựng nội dung đánh giá của GV.
Bạn muathuhn1992@gmail.com:
Ông Lê Việt Dương
CNTT là một công cụ rất hữu ích để ứng dụng vào các công việc trong cuộc sống hiện nay, trong đó có GD và cả đánh giá.
Tuy nhiên CNTT cũng chỉ là một trong nhiều phương án để tổ chức đánh giá nên GV có thể vận dụng những phương án phù hợp nhất với GV và HS.
Qua thời gian phòng dịch vừa qua thì ta có thể tin tưởng là các thầy cô đã sẵn sàng ứng dụng CNTT vào dạy học. Như vậy, việc thực hiện kiểm tra, đánh giá trên máy vi tính sẽ không gây khó khăn cho GV. GV có thể sáng tạo, linh hoạt vận dụng cách thức này một cách phù hợp.
Bạn Tiến Nha, Thái Nguyên:
ThS. Lê Thị Hoàng Hà
Trước hết, phải hiểu mục đích cuối cùng của kiểm tra, đánh giá là vì sự tiến bộ của người học. Kiểm tra, đánh giá không chỉ đơn thuần là cho điểm hay lượng hóa năng lực của học sinh, mà quan trọng hơn chúng ta phải diễn giải, sử dụng thông tin đánh giá mà chúng ta thu được.
Chính kiểm tra đánh giá sẽ cung cấp thông tin về năng lực người học, để từ đó có thể có sự điều chỉnh để tác động phù hợp nhằm phát triển năng lực người học.
Tôi không thích từ “nhận xét” mà thích từ “phản hồi”. Dù nhận xét hay phản hồi cũng phải bảo đảm 2 nguyên tắc. Nguyên tắc thứ nhất là nhận xét phải hàm chứa thông tin mang tính mô tả về năng lực của người học. Nguyên tắc 2 là thông tin đó phải giúp cho người học phát triển.
Nhận xét và phản hồi hoàn toàn khác khen ngợi hay trách phạt. Muốn thực hiện các kỹ thuật nhận xét bảo đảm nguyên tắc trên, quan trọng là phải mô tả được mục tiêu mà chúng ta đánh giá. Mỗi một nhiệm vụ học tập hay nhiệm vụ đánh giá mà chúng ta đặt ra cho người học đều phải có mục tiêu đánh giá gắn liền với mục tiêu dạy học. Dựa trên mục tiêu đó, chúng ta sẽ nhìn ra được người học có điểm mạnh, tồn tại gì so với mục tiêu đặt ra, từ đó xây dựng nên nhận xét, phản hồi.
Ví dụ, 2 em học sinh cùng đạt 7 điểm trong 1 bài kiểm tra; năng lực của 2 em này có thể không giống nhau. Chúng ta phải dựa trên thực chất HS đó làm được và không làm được bài nào để nhận xét và phản hồi. Phản hồi khi đó vừa có ý nghĩa, vừa giúp người học phát triển năng lực.
Bạn Nguyenminh45@gmail.com:
Ông Lê Việt Dương
GV phải quan sát HS và có những nhận xét hàng ngày trong từng tiết học về HS trong lớp; cập nhật những nhận xét, biểu hiện rõ nét của HS sau mỗi tiết học.
GV có nhiều lớp dạy cần bố trí thời điểm đánh giá hợp lý giữa các lớp mình phụ trách.
Bạn Hà Thu Hạnh, Lạc Long Quân, Tây Hồ, Hà Nội:
Ông Lê Việt Dương
Đề đánh giá đủ 3 mặt Tiến bộ - Thái độ - Kết quả là việc làm tốn thêm thời gian hơn so với việc chỉ ghi kết quả hoặc 1 trong 3 nội dung.
Đây là một việc cần thiết trong quá trình dạy học và theo dõi sự hoạt động; làm việc của HS và theo quy định mới, số lần đánh giá đã được quy định không nhiều.
Tuy vậy cũng có một khó khăn là ở một số TP lớn, sĩ số HS cao và với các cấp học THCS và THPT có những bộ môn mà GV dạy nhiều lớp. Khi đó cần có sự sắp xếp thời gian để đảm bảo việc đánh giá.
Bạn Sỹ Điền, Sóc Sơn, Hà Nội: