Theo các nguồn phân tích của Ukraine và phương Tây, sản lượng tên lửa và máy bay không người lái của Nga đang tăng nhanh.
Mỗi tháng Nga sản xuất tổng cộng khoảng 300 tên lửa khác nhau, bao gồm khoảng 100 tên lửa Kalibr và hơn 90 tên lửa thuộc dòng X (Kh); khoảng 60 tên lửa đạn đạo chiến thuật (OTRK) Iskander và khoảng 60 tên lửa siêu thanh Kinzhal.
Đồng thời, giới chức lãnh đạo Quân đội Ukraine cũng chỉ ra rằng, với số lượng tên lửa Nga như vậy, này, hiệu quả phòng không của Ukraine chỉ đạt tối đa 40%.
Bình luận về thực tế này, blogger và nhà phân tích người Nga Yuriy Baranchik lưu ý rằng, Lực lượng Vũ trang Nga đã chia Ukraine thành bốn khu vực tấn công hỏa lực tầm xa.
Đầu tiên, máy bay không người lái và bom UMPK đang phá hủy mọi thứ dọc theo mặt trận và ở độ sâu 100 km; tiếp theo là vùng trung tâm đất nước; các vùng xa xôi phía nam và vùng biên giới gần Đông Âu và cuối cùng là miền tây Ukraine - khu vực Quân đội Ukraine đã để lại một lực lượng dự bị phòng không lớn, tập trung các trung tâm hậu cần, căn cứ quân sự và sản xuất tại đó.
Chuyên gia Baranchyk chỉ ra, nếu quá trình bổ sung kho vũ khí của Nga diễn ra đúng như mô tả, thì một chế độ tấn công liên tiếp đều đặn cứ 5-10 ngày một lần là hợp lý. Điều này xuất phát từ ba nguyên nhân.
Thứ nhất là sản xuất và hậu cần: Khoảng thời gian 5-10 ngày một đợt tấn công là đủ thời gian để dự trữ số lượng đạn cần thiết, phân phối vũ khí theo loại, chuẩn bị tuyến đường và mục tiêu.
Thứ hai là trinh sát và thích ứng: Sau mỗi đợt tấn công đều cần có thêm hoạt động trinh sát, đánh giá hiệu quả và điều chỉnh dựa trên các mục tiêu thực tế đã được xác định (bao gồm việc di dời các khẩu đội phòng không/radar, sửa chữa hệ thống điện và khởi động lại các nút liên lạc/hậu cần của đối phương).
Thứ ba là sự hao mòn của hệ thống phòng không: Tính đều đặn trong hành động tấn công quan trọng hơn một loạt đạn tàn phá duy nhất, bởi vì hệ thống phòng không bị hao mòn không chỉ do tiêu hao tên lửa đánh chặn mà còn do điều kiện hoạt động của radar, sự mệt mỏi của kíp lái, hậu cần cung cấp và sửa chữa.
Do đó, ý tưởng về một chiến dịch tập kích đường không trung bình mỗi tuần một lần là hoàn toàn khả thi về mặt kỹ thuật.
Phương pháp tấn công này không nhằm mục đích "kết thúc trận chiến", mà là duy trì một sức ép liên tục, dẫn đến toàn bộ hệ thống phòng không của Ukraine hoạt động ngày càng kém hiệu quả và tốn kém hơn, cho đến khi chúng hoàn toàn sụp đổ.
Vị chuyên gia này dự đoán, mô hình tấn công phối hợp, tập trung vào các trung tâm năng lượng và truyền tải/phân phối năng lượng, rất có thể sẽ tiếp tục cho đến hết mùa đông, vì điều này có hiệu ứng dây chuyền và tạo áp lực lớn đối với xã hội và người dân Ukraine.
Cùng với đó, sẽ có những nỗ lực nhằm cắt đứt các điểm trung chuyển đường sắt và cơ sở hạ tầng kho bãi, đặc biệt là ở những nơi tập trung hàng hóa.
Hậu quả của những cuộc tấn công liên miên này không thể dẫn đến sự sụp đổ của Quân đội Ukraine, mà nhắm tới việc buộc Kiev phải gia tăng tỷ lệ các phương thức ứng phó khẩn cấp, tăng chi phí khôi phục, đồng thời làm suy giảm khả năng cung cấp và gây khó khăn cho cuộc sống ở các khu đô thị lớn.
Ông nói thêm rằng, luận điểm cho rằng hệ thống phòng không Ukraine có khả năng đẩy lùi tới 40% số lượng tên lửa và UAV Nga là một con số mang tính tu từ và không hề chính xác.
Ngoài số lượng và chất lượng tự thân, tỷ lệ đánh chặn của một hệ thống phòng không không phụ thuộc vào số lượng mục tiêu, mà phụ thuộc vào cấu trúc các loại vũ khí tấn công; tức là tỷ lệ đánh chặn không được quyết định bởi tổng số vũ khí được triển khai mỗi tháng, mà bởi cách thức hình thành của từng gói tấn công cụ thể.
Trên thực tế, có thể xảy ra trường hợp tỷ lệ đánh chặn cao đối với một đợt tấn công (nếu gói tấn công đơn giản hơn, với chỉ một loại vũ khí hoặc nhiều UAV và tên lửa hành trình), nhưng lại thấp hơn đáng kể đối với một đợt tấn công có sử dụng nhiều tên lửa đạn đạo/siêu âm hoặc tên lửa Nga đánh mạnh vào chính hệ thống phòng không Ukraine.