Độc tiểu thanh kí: Tiếng khóc cho người, cho mình và cho cuộc đời dâu bể

GD&TĐ - Nguyễn Du được mệnh danh là đại thi hào dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới. Những tác phẩm văn học của ông để lại cho đời là đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của văn học trung đại dân tộc.

Những giá trị vượt thời gian trong văn học Nguyễn Du, ngoài Truyện Kiều phải kể đến rất nhiều tác phẩm mang giá trị nhân đạo sâu sắc ở thế kỉ XVIII, mà Độc Tiểu Thanh kí là một ví dụ tiêu biểu. 

1.

Bài thơ này được coi là tiếng khóc cho người, khóc cho mình và khóc cho chính cuộc đời dâu bể ở thời kì đầy những biến động lịch sử.

Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,

Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.

Chi phấn hữu thần liên tử hậu,

Văn chương vô mệnh luỵ phần dư

Cổ kim hận sự thiên nan vấn,

Phong vận kì oan ngã tự cư.

Bất tri tam bách dư niên hậu,

Thiên hạ hà nhân kháp Tố Như?

Ra đời trong lần Nguyễn Du đi sứ Trung Quốc, in trong “Thanh Hiên thi tập”, “Độc Tiểu Thanh kí” cùng với Truyện Kiều và các tác phẩm khác, Độc Tiểu như một tiếng khóc nghẹn ngào cho những kiếp người “tài mệnh tương đố”.

Thực ra, nỗi niềm đau đớn, xót thương cho mọi số kiếp khổ đau trong nhân gian là tình cảm lớn, xuyên suốt hầu hết sáng tác của đại thi hào Nguyễn Du. Từ tập đại thành Truyện Kiều đến Văn tế thập loại chúng sinh, Phản Chiêu hồn, Sở kiến hành, Long Thành cầm giả ca, Độc Tiểu Thanh Kí..., ở văn bản nào, người đọc cũng được chứng kiến nỗi niềm đau đáu khôn nguôi của người nghệ sĩ có “con mắt trông thấy sáu cõi và tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời” (Mộng Liên Đường chủ nhân). Nhưng riêng “Độc Tiểu Thanh kí” nỗi lo đời, thương người trải suốt chiều dọc bài thơ và đã trở thành tiếng khóc nhân sinh đau đớn.

Người con gái khiến đại thi hào phải bật lên sự thổn thức ở bài thơ này chính là Tiểu Thanh, một cô gái sống ở đầu đời Minh (Trung Quốc), tên thật là Phùng Huyền Huyền. Tiểu Thanh nổi tiếng là người con gái tài hoa, xinh đẹp nhưng sớm phải đem thân đi làm vợ lẽ họ Phùng. Cuộc đời nàng mang nhiều bi kịch: Bị vợ cả ghen tuông đến cay nghiệt, bị bắt dọn ra núi Cô Sơn ở trong cô độc, bị ngược đãi đày đoạ… để rồi mất năm 18 tuổi. Thậm chí, khi nàng mất rồi, thơ ca của nàng còn bị người vợ cả mang ra đốt, những bài thơ còn sót lại được người đời sau sưu tập lại được gọi là “phần dư”. Khi đi sứ Trung Quốc, Nguyễn Du đọc được tập thơ nhỏ ấy của Tiểu Thanh, hoặc có thể ông đọc được câu chuyện về nàng mà cảm thương để rồi cảm tác mà viết nên bài thơ này. Bài thơ mang tên Độc Tiểu Thanh kí cũng vì lẽ ấy.

Tượng Đại thi hào Nguyễn Du tại Khu lưu niệm cụ thuộc làng Tiên Điền, xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ảnh: IT
Tượng Đại thi hào Nguyễn Du tại Khu lưu niệm cụ thuộc làng Tiên Điền, xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ảnh: IT

2.

Đọc bài thơ, bất cứ ai cũng nhận thấy tiếng khóc Nguyễn Du trước hết hướng tới số phận bi kịch của nàng Tiểu Thanh với nỗi niềm cảm thương dào dạt:

Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư

(Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang)

Tây Hồ vốn là một cảnh đẹp thuộc tỉnh Chiết Giang – Trung Quốc, trước đây vốn là nơi huy hoàng, thịnh vượng. Tiểu Thanh đã từng sống ở nơi này. Khi có bóng dáng, con người, có bàn tay vun vén, chăm chút sửa sang, trong quá khứ Tây Hồ vốn là cảnh đẹp. Nhưng khi con người không còn nữa, trước sự xâm lấn của thời gian, hiện tại Tây Hồ chỉ còn là nơi hoang vu, trơ trọi đến tiêu điều. Sử dụng từ “tẫn” nghĩa là hết, là tận tác giả đã thể hiện rõ hơn sự biến thiên dâu bể. Nghệ thuật đối lập giữa xưa và nay, giữa quá khứ và hiện tại càng nhấn mạnh hơn sự tiếc nuối, cảm thương của tác giả khi cái đẹp bị vùi dập.

Câu thơ thứ hai:

Độc điếu song tiền nhất chỉ thư

Tâm thế của người tưởng nhớ tới người xưa rất rõ ràng “thổn thức”. Niềm cảm thương, sự xót xa cho người con gái tài sắc đã bật ra thành tiếng khóc thương cho người. “Độc điếu” là một mình viếng. Nguyễn Du viếng người con gái ấy trong sự cô độc. “Độc điếu” gặp “nhất chỉ thư” (một tập sách mỏng manh) như càng nhấn mạnh hơn sự cô đơn của hai con người cách nhau tới ba trăm năm có lẻ. Như vậy nếu dòng đầu nhà thơ nói đến sự hoang tàn đổ nát của hiện tại, thì ở dòng thơ hai nhà thơ cảm thương cho con người cụ thể trong thời đại ấy. Xưa Tiểu Thanh đơn độc, nay Nguyễn Du cũng không hơn. Xót xa thay!

Ở hai câu thực:

Chi phấn hữu thần liên tử hậu,

Văn chương vô mệnh luỵ phần dư

(Son phấn có thần chôn vẫn hận

Văn chương không mệnh đốt còn vương)

Hình ảnh hoán dụ son phấn, văn chương vốn là những hình ảnh xưa nay biểu trưng cho sắc đẹp của người phụ nữ và tài năng thi ca. Vốn dĩ sắc đẹp là của trời ban, nó mang thần sắc khí khái của con người, vậy nên “chôn vẫn hận”, vẫn oán thán về cuộc đời dâu bể. Tài năng không có số phận nhưng vì gắn với một cuộc đời bất hạnh nên cũng bị “đốt”, vùi dập không tiếc thương.

Câu thơ như nghẹn lại về cuộc đời của người con gái hồng nhan bạc phận. Dùng động từ chôn, đốt nhà thơ nhấn mạnh sự vùi dập, chà đạp phũ phàng của cuộc đời đối với cái Tài, cái Đẹp. Xã  hội phong kiến với những định kiến, những quan niệm bất công khiến cho những người con gái như Tiểu Thanh phải đau khổ, u uất để rồi ôm mối hận trong lòng mà chết khi tuổi đời còn rất trẻ. Hồng nhan bạc phận, tài mệnh tương đố dường như nó trở thành quy luật trong xã hội phong kiến. Chính quy luật nghiệt ngã đó khiến Nguyễn Du có lần phải đau đớn thốt lên “Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Hoặc:

Đau đơn thay phận đàn bà,

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung

(Truyện Kiều)

Như vậy, từ tiếng khóc cho cuộc đời đau khổ của Tiểu Thanh, tiếng khóc của Nguyễn Du hướng tới khóc cho những giá trị cụ thể trong đời đó là giá trị tâm hồn con người và giá trị văn hoá tinh thần. Lời thơ đong đầy nỗi niềm tiếc thương, xót xa, đau đớn. Nhan sắc ấy, tài năng ấy có lẽ đâu lại phải chịu đựng sự chà đạp phũ phàng nhường vậy? Phép đối (chi phấn hữu thần – văn chương vô mệnh, liên tử hậu - luỵ phần dư) càng khiến nỗi đau trở nên dai dẳng, mang ý nghĩa nhân loại. Nhưng sức khái quát của lời thơ dường như còn chưa dừng lại ở đó:

Cổ kim hận sự thiên nan vấn,

Phong vận kì oan ngã tự cư.

(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi

Cái án phong lưu khách tự mang)

“Cổ kim hận sự” là nỗi hờn, là sự oán thán về sự bất công của số phận. Tại sao tài hoa lại bạc phận? Tại sao tài mệnh tương đố? Câu hỏi khó ấy trong thời đại Nguyễn Du đến trời cũng không thể giải đáp. Khi xã hội phong kiến còn vô vàn bất công, khi quan niệm xã hội trọng nam khinh nữ còn tồn tại thì những người như Tiểu Thanh, như Tố Như chỉ còn biết ôm mối ngậm ngùi chịu đựng.

Từ đồng cảm, tương liên, nhà thơ khái quát những thân phận ấy thành những con người mắc chung án “phong lưu”: “Phong vận kì oan ngã tự cư”. Từ thương người, đến đây Nguyễn Du đã coi mình là người cùng hội cùng thuyền với Tiểu Thanh vì cùng mắc “án oan vì nết phong nhã”.

Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.

3.

Tiếng khóc của Nguyễn Du trong Độc Tiểu Thanh Kí không chỉ hướng tới cuộc đời, số phận cụ thể là nàng Tiểu Thanh mà còn hướng tới tất cả những người tài hoa, phong nhã, không phân biệt nam hay nữ (những kẻ phong vận). Tiếng khóc ấy chan chứa yêu thương rất chân thành, xúc động bởi lẽ tác giả đã tự đặt mình vào thế giới của những kẻ phong vận kia. Điều đó chứng tỏ nhà thơ ý thức rất rõ về bản thân mình, nhưng sống trong thời kì lịch sử nhiều biến động, thăng trầm, nhà thơ đành phải chấp nhận. Sự đối lập giữa hai hình ảnh: Thiên – ngã dường như càng nhấn mạnh hơn vào sự bé nhỏ, bế tắc của con người trước những bất công, phi lí của cuộc đời.

Bi kịch của người xưa còn đó, Nguyễn Du là hậu thế của Tiểu Thanh cũng trong một vòng luẩn quẩn, không ai trả lời được cho nhà thơ về nguyên nhân của bi kịch nên nhà thơ đành hướng về hậu thế mong một sự tri âm, đồng vọng:

Bất tri tam bách dư niên hậu,

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

Từ hiện tại, Nguyễn Du khóc thương cho quá khứ, cho người trong quá khứ. Và bất chợt nhà thơ tự hỏi ba trăm năm sau sẽ ai khóc thương mình. Thương người, ngẫm bi kịch của người, khóc cho người rồi tự thương chính bản thân mình, điều đó cho thấy nhà thơ đã tự đặt mình vào số phận chung của những tấn bi kịch. Ba trăm năm lẻ là con số ước lệ tượng trưng. Ở đây nhà thơ hướng tới hậu thế sau mình.

Người con gái tài hoa mệnh bạc Tiểu Thanh mất đi, ba trăm năm sau có hậu sinh Nguyễn Du thương xót cho nàng. Nỗi đau của nàng vì thế phần nào được xoa dịu nơi chín suối. Nhưng còn nhà thơ thì sao? Sự đồng cảm, tri âm, đồng điệu liệu rằng ông có nhận được ở thế hệ sau mình?

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

(Người đời ai khóc Tố Như chăng?)

Câu hỏi da diết khắc khoải như chính nỗi lòng đau đáu của nhà thơ. Khóc là dấu hiệu mãnh liệt nhất của tình cảm, cảm xúc thương thân mình, thân người trào lên mãnh liệt không kìm nén được. Có thể nói nỗi cô đơn của người nghệ sĩ lớn như “Tiếng chim cô lẻ giữa trời thu khuya” (Xuân Diệu). Ông thấy mình lạc lõng ở hiện tại và đã tìm thấy được một người tri kỉ ở quá khứ nhưng vẫn mong ngóng một tấm lòng trong tương lai. Tấm lòng nhân đạo mênh mông vượt qua mọi không gian và thời gian của nhà thơ là ở chỗ đó. Và giá trị nhân đạo mới mẻ từ thương người đến thương mình cũng ở chỗ đó.

Với ngôn ngữ trữ tình, đậm tính triết lí, cách sử dụng tài tình những hình ảnh đối lập, câu hỏi tu từ đầy trăn trở băn khoăn trong hình thức thơ chữ Hán thất ngôn bát cú Đường luật ngắn gọn, trang trọng, Độc Tiểu Thanh Kí thực sự là bài thơ xúc động. Người đọc được lắng nghe một tiếng khóc đầy đớn đau, nhức nhối, được chứng kiến một tấm lòng nhân đạo hết sức cao cả của người nghệ sĩ tài hoa đa truân. Bài thơ có sức sống lâu bền với thời gian có lẽ vì giá trị đó.

Năm 1965 nhân kỉ niệm 200 năm sinh của nhà thơ, Tố Hữu, một hậu sinh tài hoa đã thay mặt cho hậu thế gửi bậc tiền bối trong bài “Kính gửi cụ Nguyễn Du”: 
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày
Hỡi người xưa của ta nay
Khúc vui xin lại so dây cùng người
Không phải là hai trăm năm hay ba trăm năm như Tố Như lo lắng trăn trở mà cho đến nghìn năm sau thì cả dân tộc Việt Nam và thế giới vẫn nhớ đến con người và tác phẩm của bậc đại thi hào như ông.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ