Cái “địa danh” mà lũ học sinh thời chống Mỹ như chúng tôi, mỗi khi đọc câu thơ “Anh ở Vĩnh Yên lên/Tôi trên Sơn Cốt xuống/Gặp nhau lưng đèo Nhe/Bóng tre trùm mát rượi” trong bài thơ “Cá nước” nổi tiếng của nhà thơ Tố Hữu viết từ năm 1947, lại thầm thì bảo nhau “Nơi ấy chắc là xa tít mù tịt rừng núi âm u phải biết”.
Một sáng tháng 6 nắng ong ong, tự dưng ai đó trong chúng tôi, những trại viên của Trại sáng tác Đại Lải, lại hứng lên rủ nhau “Ta đi Đèo Nhe đi. Tôi mới thấy ghi trên cột cây số lúc chiều qua khi ngang qua Resorts Đại Lải.
Mình đi xem sự thể thế nào. Không biết Đèo Nhe này có phải là “Đèo Nhe” trong thơ Tố Hữu ngày xưa không nhỉ?”. Nhà thơ Ngô Minh Bắc, người Bắc Giang, tỏ ra thuộc thơ bèn đọc to “Tôi nhích lại gần anh/Người bạn đường anh dũng/Anh chiến sĩ hiền lành/Tì tay trên mũi súng”.
Thế là rủ nhau đi. Cũng là đi kiểu “thay đổi không khí” sau mấy ngày “nhập trại”, sau mấy ngày quanh quẩn sáng sớm chạy thể dục là ùa xuống hồ Đại Lải tắm, chiều trước khi vào bữa tối lại tắm ở hồ Đại Lải.
Nhà văn Nguyễn Bảo là người hăng hái nhất, ông kéo tay nắm đóng sầm cánh cửa xe ý như nếu chậm trễ sợ nhà văn Nguyễn Duy Liễm “bàn lui”. Lão nhà văn tên Liễm đến từ “Xứ vàng đen” đang mải vào mạch tâm đắc nhất của cuốn tiểu thuyết viết về những ngày đánh Mỹ ở vùng đất Tân An bên sông Vàm Cỏ Đông nên chùng chình nấn ná.
Đoạn đường từ cuối hồ Đại Lải lên đỉnh dốc hơi “khó đi” nhưng là con đường vốn trải nhựa có vẻ không ngoằn nghèo lắm, xe của chúng tôi vẫn “vun vút” băng qua những rừng cây thấp thoáng xóm làng. Vù một cái xe đã đi qua 4 cây số, thế là chúng tôi đã lên đỉnh.
Đó là một đỉnh đèo không cao lắm, xung quanh trống trải, vỏn vẹn hai ngôi nhà cửa đóng im ỉm. Gọi mãi mới có người mở cửa. Gặng mãi người ấy mới đứng thập thò nói chuyện. Sau vài câu gọi là chúng tôi mới hay cung đường đèo này mấy năm gần đây trở thành “cung đường dành cho các phượt thủ”, xe máy phân khối lớn tiếng nổ đinh tai, dừng lại trên đỉnh đèo hút thuốc nhả khói mù mịt nên gia chủ ngại.
Theo như lời của gia chủ (là một phụ nữ chừng ngoài bốn mươi và đang ở nhà một mình) thì trước đây trên đỉnh đèo này khá heo hút, cây lá um tùm, đặc biệt là tre rừng mọc ken nhau tựa như những tường rào chặt kín.
“Đấy là chuyện lâu rồi – người phụ nữ tên Chiên cười – Nói thật với các bác là cháu cũng chỉ nghe cha mẹ kể lại thôi. Chứ từ hồi lão chồng cháu nằng nặc đòi rời làng ở dưới chân đèo để lên đây dựng nhà thì cây lá đã thưa thớt. Vợ chồng cháu dựng một quán nhỏ bán tí xăng cho xe lỡ hết bình và bơm vá chơi chơi thế thôi chứ thực ra vợ chồng cháu nhận khoán mấy vạt rừng các bác ạ”.
Chuyện của người phụ nữ nghe cũng hay hay, chúng tôi ngoảnh mặt nhìn về phía Phúc Yên, mà nói là nhìn về phía Phúc Yên nhưng nào có thấy bóng dáng thành phố bởi rừng cây đã che tầm mắt, chỉ thấy thấp thoáng dưới chân đèo những mái nhà ngói đỏ lẩn khuất sau những tán lá xanh.
Ngước mắt cao thêm chút là có thể hình dung ra mặt hồ Đại Lải ánh lên dưới ánh Mặt trời, thấy tựa như một chiếc gương khổng lồ.
Đèo Nhe đây đúng là “Đèo Nhe” trong thơ Tố Hữu thật. Nhà thơ Ngô Minh Bắc “cậy” điện thoại có 3G nên “có gì không biết cứ tra gu gồ”, ông hào hứng đọc to “Trưa nay trên đèo cao/Ta say sưa vài phút/Chia nhau điều thuốc lào/Nào anh hút tôi hút”.
Đèo Nhe là một con đèo xưa vốn hiểm trở thuộc chân phía Đông Nam dãy núi Tam Đảo. Thời đầu kháng chiến đây là lối lên chiến khu an toàn và thuận tiện cho các đoàn cán bộ chiến sĩ ta.
Con đèo khi đó đã trở thành điểm nối giữa vùng đồng bằng tạm chiếm (Hà Nội, Vĩnh Phúc) với vùng tự do ở trung du và miền núi (Thái Nguyên, Tuyên Quang). Nay Đèo Nhe nằm trên tỉnh lộ 301 với bên Tây là xã Ngọc Thanh, thành phố Phúc Yên (tỉnh Vĩnh Yên) và bên Đông là xã Thành Công, thành phố Phổ Yên (tỉnh Thái Nguyên).
Cứ như lời của cô Chiên thì từ đây nếu muốn “chạy nhanh” sang “Xứ Chè” để mua vài lạng chè Thái về uống cũng không lâu la lắm. Cô Chiên còn cười nói góp: “Các bác cứ chạy xe vừa xuống tới chân đèo bên ấy là sẽ gặp Giếng nước cổ Sơn Cốt. Chừng hơn ba cây số thôi các bác ạ”.
“Có phải là “Sơn Cốt” trong thơ Tố Hữu không?”. Ông nhà văn già Nguyễn Duy Liễm, cẩn trọng hỏi lại. Cô Chiên hơi ngượng ngượng: “Cháu không biết thơ phú nhưng Giếng cổ Sơn Cốt có từ lâu đời lắm rồi. Nghe nói cũng ngàn năm ấy.
Giếng nằm ngay ngã ba Sơn Cốt. Ngã ba ấy một hướng đi Phổ Yên, một hướng đi Định Hóa và một hướng lên đây ạ. Nghe nói khi làm đường phải mở rộng ngã ba Sơn Cốt, thấy Giếng cổ linh thiêng nên cánh làm đường không dám lấp giếng. Thành thử Giếng cổ Sơn Cốt bây giờ nằm chính giữa ngã ba Sơn Cốt”.
Câu chuyện hay hay, cũng hấp dẫn đã kéo chúng tôi lững thững đi bộ lên đỉnh đèo, lên đúng vị trí ranh giới giữa hai tỉnh. Chúng tôi nhìn về hướng Đông thấy bạt ngàn một màu xanh của lá. Chợt nhớ cô Chiên đã nói: “Ở bên ấy họ trồng rừng tốt hơn bên cháu”.
Chẳng biết bên Đông, tức bên Thái Nguyên ấy, đất đai mầu mỡ hơn hay con người chăm chỉ hơn nhưng đúng là nhìn hút theo con đường đèo ngoằn ngoèo chúng tôi thấy, trong tầm mắt là cây rừng tươi tốt, xa xa hơn chút là những làng xóm nhà nhà xúm xít. Lại nhà thơ Ngô Minh Bắc cất tiếng ngân nga “Rồi lát nữa chia đôi/ Anh về xuôi tôi ngược/ Lòng anh và lòng tôi/ Mang nặng tình cá nước”.
Và thế là “một cuộc hội thảo” diễn ra ngay khoảng đất trống trên đỉnh đèo. Chúng tôi ngồi phệt, nhâm nha ấm nước mà cô Chiên mới pha. Vẫn là nhà thơ Ngô Minh Bắc lên tiếng, vợ ông vốn là giáo viên dạy Văn cấp 3 nên ông nói như một học trò thuộc bài vậy.
“Thơ Tố Hữu nói chung, bài thơ “Cá nước” nói riêng là thể hiện niềm vui, nỗi buồn và thái độ yêu, ghét đúng đắn. Ðó là tâm trạng của một người nguyện gắn bó máu thịt với nhân dân. Là tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng chí.
Thơ Tố Hữu mang bản chất cách mạng sâu sắc: Yêu đất nước, yêu con người. Là đây nhé “Một thoáng lặng nhìn nhau/ Mắt đã tìm hỏi chuyện/ Đôi bộ áo quần nâu/ Đã âm thầm thương mến”. Các nhà thấy có đúng không?”.
Ôi chao ơi. Cứ nghe như đang được nghe cô giáo dạy Văn giảng bài ấy. Nhà văn Nguyễn Bảo từ đầu vốn giữ vẻ thâm trầm, ông từng là một cây bút chiến trường hồi chiến tranh chống Mỹ ở Quảng Đà, nên nhiều chiêm nghiệm, ông nói chậm khẽ “Dù là những dòng thơ tươi xanh hay những dòng thơ lửa cháy, giọng thơ Tố Hữu vẫn một điệu sôi nổi, mãnh liệt”.
Chuyện thơ “nổ” như ngô rang, hóa ra bài thơ “Cá nước” chúng tôi đều đã được học nhưng quả tình sau mấy chục năm cùng nhau đọc lại ngay trên đỉnh Đèo Nhe mới thấy ngấm.
“Rồi lát nữa chia đôi/ Anh về xuôi tôi ngược/ Lòng anh và lòng tôi/ Mang nặng tình cá nước” nhà văn Nguyễn Duy Liễm như đang hồi tưởng về những tháng ngày sống và chiến đấu trong sự đùm bọc của bà con miền sông nước nơi đôi dòng Vàm Cỏ, ông hơi cúi đầu cất giọng tuy khe khe vậy mà vẫn cảm được sự biết ơn chân thành.
Cuộc kháng chiến chống Pháp rồi chống Mỹ kéo dài mấy chục năm trời những người chiến sĩ nếu không có sự đùm bọc, chở che của người dân chắc sẽ không có ngày toàn thắng.
“Mồm anh nở rất tươi/ Mặt anh vàng thắm lại/ Cánh đồng quê tháng Mười/ Thơm nức mùa gặt hái”. Nhà văn Nguyễn Bảo giọng run run, trong tâm khảm của ông như đang hiện ra hình ảnh về một làng quê nơi Xứ Thanh.
Tất cả chúng tôi, đều từng là những người lính đi qua cuộc chiến tranh nên thấu hiểu hết giá trị cùng nghĩa tình của người chiến sĩ đang chiến đấu ngoài xa trường. Chúng tôi đều từng rời mái nhà của mẹ, rời những cánh đồng lúa lên xanh khi tuổi đời đều còn rất trẻ.
Những ngày ở chiến trường, lúc lặng yên giữa hai trận đánh, những người lính xa nhà cúi đầu ngẫm ngợi. Hình ảnh người mẹ, thửa lúa chín vàng cùng mái nhà xưa êm ấm lại hiện hữu như một lời động viên, như một lời nhắc nhở.
Nắng trưa sắp lên tới đỉnh đầu. Trên đỉnh Đèo Nhe chợt ùa luồng gió mát. Chúng tôi cùng lặng im hồi lâu, tự trong mỗi một người đang tự hồi về dòng ký ức ấu thơ và dòng ký ức trận mạc.
Câu thơ giản dị, chân chất mà nhà thơ Tố Hữu viết trên đỉnh Đèo Nhe năm nào đang khơi lên nguồn cảm hứng cùng niềm yêu đằm thắm “Chắc có lúc lòng anh/ Nhớ nhà anh nhớ lắm/ Ơi người bạn hiền lành/ Mắt nhìn xa đăm đắm”.