Chùa cổ thời Lý - Trần
Theo tư liệu thần phả, Đức Thánh Bối họ Nguyễn, tên húy là Bình An, quê ở Bối Khê nhưng tu học ở viện Tiên Lữ (chùa Trăm Gian). Khi nhỏ đi chăn trâu, ngài thường phóng sinh cho tôm cá, tiếng tăm tu hành vang đến triều đình nhà Trần, được vua phong làm Chân Nhân.
Những ngày đầu năm mới, chùa Bối Khê (nay thuộc xã Tam Hưng, Thanh Oai - Hà Nội) luôn thu hút đông đảo Phật tử và khách thập phương đến du Xuân vãn cảnh. Người Bối Khê nói rằng, trong ngôi chùa cổ, từ viên gạch, vì kèo cho đến cây cỏ đều là những vết tích xưa còn hiển hiện liên quan đến Đức Thánh Bối.
Theo tư liệu của nhà chùa, từ những năm 1930, học giả Pháp bắt đầu có những nghiên cứu, sau đó các nhà nghiên cứu Việt Nam cũng thúc đẩy tìm hiểu từ những năm 1960 bởi lịch sử độc đáo, văn hóa đặc sắc và phong cách nghệ thuật trang trí, kiến trúc tỉ mỉ của ngôi cổ tự.
Chùa Bối Khê có tên chữ là Đại Bi tự, vốn là chùa của hai thôn Bối Khê và Hồng Khê. Xưa Bối Khê là một xã thuộc tổng Bối Khê, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam Thượng. Chùa được xây dựng từ thời nhà Trần (năm 1338), được trùng tu và mở rộng trong 8 đợt dưới các triều Lê sơ, Mạc, Lê trung hưng và triều Nguyễn.

Theo văn bia còn lại cho biết, chùa được xây dựng quy mô vào năm Hoằng Định thứ 4 (1603) nhưng đến năm Thiệu Trị thứ 6 (1846) đã làm lại một cách cơ bản. Tấm bia này cũng ghi chép, năm 1883 công chúa Thánh Chân cúng quả chuông to, về sau bị mất, nay treo chuông đúc năm Thiệu Trị thứ 4 (1844).
Chùa tọa lạc trên khoảng đất rất rộng, ngay trước sân là một bãi đất trống mà theo ghi chép lại thì đây từng là nơi tuyển mộ quân lính triều Trần. Cổng chùa xây bằng gạch, đồng thời cũng là cổng làng. Sau cổng là con ngòi nhỏ, dấu tích của dòng sông Đỗ Động thuở xưa, có nhịp cầu vắt ngang qua. Qua cầu là tới tam quan với kiến trúc ba gian, hai tầng tám mái, tầng trên cùng là gác chuông.
Chùa có kết cấu “nội công ngoại quốc”, trước thờ Phật, sau thờ Thánh. Hai bên là hai dãy hành lang, mỗi dãy 7 gian, bày tượng La Hán. Tòa thượng điện dựng trên nền cao, cột to và thấp, đầu đao gác mái uốn cong thanh thoát. Các bộ phận kiến trúc bằng gỗ chạm trổ công phu, mang đậm dấu ấn nghệ thuật điêu khắc trang trí thời Trần, nhất là những đầu bẩy chạm rồng ở hàng hiên. Đặc biệt có một đầu bẩy ở góc mé bên trái, ngoài hình rồng còn chạm hình chim thần.
Theo tư liệu nghiên cứu của giới khoa học như Trần Lâm Biền, Chu Quang Trứ, Hà Văn Tấn thì phong cách nghệ thuật trang trí, kiến trúc chùa Bối Khê được cho là xây dựng chính xác vào năm 1338, thời nhà Trần. Tuy nhiên có giả thuyết cho rằng, chùa được khởi dựng từ thời nhà Lý, căn cứ trên khối đá chạm mang phong cách thời Lý được phát hiện năm 1999 và các văn bia niên hiệu Thái Hòa (1454), Hồng Thuận (1515) đặt tại chùa Bối Khê. Các văn bia này có nhiều đoạn ghi khá rõ khả năng chùa được lập từ thời Lý và mang tên Đại Bi.
Giả thuyết chùa Bối Khê được xây dựng thời nhà Lý, sau đó bị hủy hoại và được trùng tu lớn vào thời Trần cũng được nhiều người tán thành, bởi liên quan đến huyền tích về Đức Thánh Bối ra sức sửa sang ngôi chùa.

Chuyện khó tin về Đức Thánh Bối
Các tư liệu lịch sử và thần phả đều khẳng định, Đức Thánh Bối là người có thực, là vị thiền sư đắc đạo sống giữa thời Trần. Ông có tên là Nguyễn Bình An, sinh năm Tân Tỵ (1281) đời vua Trần Nhân Tông.
Năm 7 tuổi, ông mồ côi cả cha lẫn mẹ, phải ở nhà cô, cậu tại làng Bùi Xá để chăn trâu, cắt cỏ. Sớm có lòng từ bi hướng Phật, ông thường lui tới chùa làng để nghe giảng kinh, vào mùa hanh khô thường hay rủ bạn ra tát các vũng nước, đem tôm cá bắt được thả ra sông.
Ông thích lấy đất nặn chùa, nặn tượng và đem cơm nắm oản cúng lễ. Vốn thông minh, tuấn tú và thông tuệ khác thường, khi cậu mời thầy về dạy cho con thì ông thường đứng ngoài cửa nghe.
Ông thầy thấy cậu bé Nguyễn Bình An ham học, đem lòng yêu mến nên đã dạy thêm vào ban đêm. Năm 15 tuổi, ông chính thức xuất gia lấy hiệu là Đức Minh, đến tu tại chùa Tràng An (tục gọi là chùa Sở, cạnh núi Đồng Lanh, xã Tiên Lữ, Hoài Đức) làm môn đệ của thiền sư Phạm Cốc nổi tiếng thời bấy giờ.

Năm 16 tuổi (1305), ông vào chùa Hương Tích thỉnh giáo Long vương Chân Nhân, học được phép “đảo vũ”. Năm Hưng Long thứ 13 (1307) xảy ra đại hạn, vua Trần Anh Tông triệu ông về kinh đô Thăng Long làm lễ cầu đảo và được trận mưa suốt 3 ngày, vì thế mà nhà vua đã tặng ông bốn chữ “Đức Minh Chân Nhân”.
Khi đang ở Thăng Long, ông được tin sư trưởng quy tiên thì về chịu tang, đến bến đò Đồng Dương - Thanh Oai thì trời tối sầm, mọi người hốt hoảng vì gần đấy có tiếng hổ gầm. Thấy vậy, ông đọc thần chú, liền có chiếc thuyền xuất hiện đưa mọi người qua sông. Sau ba năm chịu tang thầy, ông về thăm quê Bối Khê, đến trước mộ cha mẹ khấn vái, tự nhiên trời tối sầm trong sáu khắc (12 giờ) rồi có nấm hình chữ nhật nổi lên, các thửa ruộng đều giãn ra, không nhà nào mất ruộng.
Trở lại chùa Tràng An, thấy chùa hư nát ông cho xây dựng lại. Ngày khởi công, thợ và dân các nơi đến quá đông, gần trưa ông cho gạo vào nồi đất và bảo mọi người thổi cơm. Cơm đang sôi, ông nói với mọi người rằng chưa có thức ăn nên ông sẽ về Bối Khê xin cà và muối. Nói rồi, ông nhún chân một cái thì không ai thấy ông đâu nữa.
Khi cơm cạn, ông đã về đến nơi. Ông đi mây về gió, các dấu tích vẫn còn là “Ao bước chân Thánh” ở làng Tiên Lữ (Đồng Hoàng, Thượng Thanh, Bối Khê). Khi qua Bình Đà, một quả cà đã rơi xuống tạo thành giếng Âm. Ông mang cà và muối ra bày đủ một trăm đĩa, xới đủ một trăm mâm, một trăm mâm xới hết lại đầy.
Ông đi guốc, trèo lên những xà ngang của chùa đi lại nhảy nhót như trên đất bằng. Các thợ nhìn nhau thất sắc, thấy ông có phép thần thông, mới biết ông là chân nhân đắc đạo, cùng nhau quỳ xuống sụp lạy.
Sau khi dựng xong chùa, vào năm 1375 khi ấy ông đã 95 tuổi, mới làm một cái khám gỗ rồi ngồi vào trong, gọi các tăng nhân ở chùa đến bảo rằng: “Trần duyên của ta đã mãn. Nay ta siêu hóa. Các đạo tràng phải đóng cửa khám đủ ba tháng, hết hạn mới được mở cửa ra xem. Nếu thấy thơm tho thì thờ cúng. Nếu thấy tanh hôi thì đem ra đồng hoang mà chôn”.
Nhưng mới được ba tuần trăng (30 ngày) thì có hương thơm và hào quang tỏa ra, mọi người vui mừng đem hương cúng tế và báo cho các làng khác biết. Sau đó, làng Bối Khê cùng mười làng xung quanh mang kiệu đến rước bát Phù Hương về thờ và nhận kết nghĩa anh em với làng Tiên Lữ. Sau này, ngày hội chính ở làng Tiên Lữ là mồng 4 tháng Giêng, ở làng Bối Khê là 12 tháng Giêng.

Độc đáo tục kết chạ và tiếp “sãi quan anh”
Cuối đời nhà Trần, vua hiếm muộn nên cùng hoàng hậu ngự giá về cầu tự sau sinh được hoàng tử. Vua liền phong cho là “Thượng đẳng tôn thần” và thăng hai chùa lên hàng quốc tự. Cuối đời nhà Hồ, nhà Minh đem quân xâm chiếm nước ta, chùa bị chúng đốt cháy liền ba ngày nhưng khám thờ Đức Thánh Bối vẫn còn, khiến cho quân giặc tức tối.
Chợt có ông lão ở đâu hiện ra mách rằng: “Muốn đốt khám Thánh thì phải đem ra tảng đá giữa cánh đồng, quấn bấc thấm tẩm dầu mới đốt được”. Giặc tin và làm theo lời ông lão, nhưng khi ngọn lửa bốc cao liền hóa ra một trận cuồng phong, lửa khói mù mịt rồi mưa xối xả suốt ba khắc (6 giờ), nước đỏ như máu khiến quân Minh đóng gần đấy bị dịch mà chết rất nhiều và một phần bị quân ta do 2 tướng Lê Triện, Nguyễn Xí chỉ huy đánh cho tơi bời. Thượng thư Trần Hiệp, nội quan Lý Hương cùng chỉ huy Lý Bằng bị chém chết.
Quân Ngô bèn đắp một cái mô đất ở địa phận làng Bảo Đà làm đấu đong quân. Chúng thấy số quân hao hụt mất quá nửa, lấy làm sợ hãi, tự biết uy linh khó phạm, rất lấy làm hối hận.
Ông lão lại hiện hình bảo giặc Ngô rằng: “Nếu các ngươi muốn sống mà về, thì phải tạc lại tượng trả ta. Bằng không, tội lỗi ấy không bao giờ xóa được”. Quân Ngô bèn sai người về bản quốc đúc một pho tượng giống như pho tượng cũ, rồi đem đến chùa làng Bối Khê lập đàn cầu đảo, từ đó mới được yên ổn.
Từ những huyền tích lạ lùng ấy, cộng với dạng thức “tiền Phật, hậu Thánh” ở chùa Bối Khê đã khiến giới nghiên cứu phải đi sâu tìm hiểu. Đức Thánh Bối là một nhân vật lịch sử - tôn giáo đã tạo nên mối quan hệ đặc biệt giữa chùa Bối Khê và chùa Trăm Gian, đồng thời là sự liên kết giữa hai làng, hai vùng đất (Bối Khê - Tiên Lữ) trên phương diện tôn giáo. Hai ngôi chùa đều thờ chung Đức Thánh Bối và hình thành tục kết chạ từ xa xưa và duy trì đến nay.
Hàng năm, vào sáng mùng 4 tháng Giêng, đoàn Bối Khê sang dự hội chùa Trăm Gian gồm 8 cụ ông và 8 cụ bà. Đoàn sang được dân Tiên Lữ gọi là các cụ “sãi quan anh”. Khi đón tiếp đoàn Bối Khê, làng Tiên Lữ chọn trong “tứ bích” mỗi thôn 2 người theo tiêu chí cao tuổi, uy tín, đạo cao đức trọng, đủ tư cách để tiếp các cụ sãi quan anh.
Khi tiếp chuyện phải nói năng từ tốn, lễ độ, nhún nhường hàn huyên thân tình sau một năm xa cách. Cỗ tiếp sãi quan anh rất to, bày trên mâm vuông, hai tầng với đầy đủ các món chay như giò, nem, chả, xôi, chè...
Đến hội chùa Bối Khê ngày 12 tháng Giêng, đoàn Tiên Lữ sang dự cũng có số người như vậy, và cũng được gọi là “sãi quan anh”. Để đáp lại, làng Bối Khê mang pháo sang Tiên Lữ lễ Thánh và tặng lan cảnh, các cụ Tiên Lữ lại mang những cây thông giống sang làm quà.
Để đón tiếp các cụ sãi quan anh Tiên Lữ, làng Bối Khê cũng chọn đủ 8 người với tiêu chí tương tự như “tứ bích”. Trưa ngày 13 tháng Giêng, sãi quan anh Tiên Lữ trở về thì hội Bối Khê cũng đi vào hồi kết.
Hiện nay, chùa Bối Khê còn lưu giữ được 52 pho tượng Phật cổ, đáng chú ý là các tượng Hộ pháp, Thập điện Diêm vương, Tam thế Phật. Trong đó, bức tượng Quan âm với 12 tay được đánh giá là đẹp nhất. Chùa cũng bảo lưu được 2 quả chuông lớn, đúc năm Thiệu Trị thứ 4 (1844) cùng tấm bia đá khắc thời nhà Trần ghi lại công đức của Đức Thánh Bối. Chùa Bối Khê được xếp hạng Di tích cấp quốc gia từ năm 1979. Đầu năm 2025, Thủ tướng ban hành Quyết định số 152-QĐ/TTg về việc xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt - trong đó có chùa Bối Khê.