Làm thêm giờ để phục hồi sản xuất
Bộ trưởng LĐ-TB&XH Đào Ngọc Dung cho biết, trong năm 2021, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao hơn năm trước. Lao động trong các ngành kinh tế tiếp tục giảm, thị trường lao động còn gặp nhiều khó khăn.
Sau khi kết thúc giãn cách xã hội, các địa phương đã trở lại trạng thái bình thường mới. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 xảy ra liên tục làm hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp bị đình trệ. Lao động không có việc làm và thất nghiệp. Sự dịch chuyển lao động lớn dẫn tới thiếu hụt lao động có trình độ kỹ thuật ở nhiều địa phương…
Đồng thời, Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương đã nhận được nhiều phản ánh của các doanh nghiệp, các hiệp hội doanh nghiệp về thực trạng hoạt động sản xuất. Đặc biệt là những khó khăn về lực lượng lao động, mong muốn được thỏa thuận làm thêm giờ để phục hồi sản xuất, làm bù cho khoảng thời gian phải ngừng việc.
Cũng theo Bộ trưởng Đào Ngọc Dung, đối chiếu các quy định về giới hạn làm thêm trong tháng, trong năm theo Điều 107 của Bộ luật Lao động thì người sử dụng lao động được phép thỏa thuận với người lao động làm thêm không quá 40 giờ/tháng. Một số ngành nghề, công việc được làm thêm từ trên 200 giờ đến 300 giờ/năm.
“Thực tế trên cho thấy các quy định về giới hạn làm thêm trong tháng, trong năm tại Điều 107 của Bộ luật Lao động cần có sự điều chỉnh ngắn hạn. Điều này để hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi sản xuất, người lao động có việc làm và thêm thu nhập, ổn định lại cuộc sống” - Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho biết.
Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH nêu rõ, việc xây dựng dự thảo Nghị quyết thời giờ làm thêm thể hiện được sự quan tâm, chia sẻ của Đảng, Nhà nước đối với người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19.
Cùng với đó nhằm kịp thời phát hiện, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp do tác động tiêu cực của đại dịch. Từ đó góp phần ổn định sản xuất, kinh doanh, hồi phục và tạo đà phát triển trong thời gian tới.
Bảo đảm đầy đủ quyền lợi cho người lao động
Thẩm tra Tờ trình của Chính phủ, Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Nguyễn Thuý Anh cho biết, các ý kiến tham gia thẩm tra cơ bản đồng tình với quan điểm của Chính phủ về việc điều chỉnh giờ làm thêm. Đây được coi là một giải pháp tình thế và chỉ áp dụng ngắn hạn.
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Nguyễn Thuý Anh, hiện nay vẫn còn một số quan điểm khác nhau về đề xuất mở việc áp dụng thời giờ làm thêm trong 1 năm đối với tất cả các ngành, nghề, công việc và việc nâng giới hạn về thời giờ làm thêm của người lao động trong tháng.
Trên cơ sở các quan điểm khác nhau này, Thường trực Ủy ban Xã hội của Quốc hội đề nghị chỉ nâng mức trần thời gian làm thêm theo tháng lên 150%. Đồng thời nghiên cứu quy định giới hạn số tháng liên tục được áp dụng mức trần tối đa (2 hoặc 3 tháng).
Thường trực Ủy ban Xã hội đề nghị Cơ quan soạn thảo rà soát các đối tượng và các ngành, nghề, công việc, trường hợp khác mà việc tăng mức trần thời giờ làm thêm sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe, không đáp ứng được yêu cầu làm việc… để quy định. Đồng thời đề nghị Chính phủ cần nghiên cứu, quy định về việc giới hạn số tháng liên tục được áp dụng mức trần tối đa.
Các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội bày tỏ tán thành với sự cần thiết của việc ban hành dự thảo Nghị quyết và việc Chính phủ đề nghị mở rộng thời giờ làm thêm của người lao động được áp dụng đối với tất cả các ngành nghề, công việc. Mức nâng trần thời giờ làm thêm theo tháng, theo năm và tên gọi, hiệu lực thi hành của Nghị quyết…
Các đại biểu cũng cho rằng, cần quy định để vừa bảo vệ người lao động vừa trả công xứng đáng cho việc người lao động đã làm thêm trên thực tế. Bên cạnh đó, cần đáp ứng yêu cầu phòng, chống dịch bệnh.
Bảo đảm sức khoẻ và điều kiện lao động lâu dài cho người lao động. Căn cứ vào yêu cầu công việc, sức khoẻ của người lao động, điều kiện của người lao động và phải đảm bảo thoả thuận bình đẳng công khai.
Trước đó, Bộ LĐ,TB&XH lấy ý kiến điều chỉnh giờ làm thêm, theo hướng vượt quy định 40 giờ mỗi tháng song không quá 300 giờ mỗi năm. Dự thảo được xây dựng theo hướng bỏ giới hạn làm thêm tối đa 40 giờ mỗi tháng, áp dụng tổng số giờ làm thêm tối đa 200 - 300 giờ mỗi năm cho tất cả các ngành nghề thay vì một số ngành đặc thù.
Hiện nay, giờ làm thêm được quy định khống chế ở mức 40 giờ mỗi tháng và không quá 200 giờ mỗi năm. Chủ sử dụng lao động khi tổ chức làm thêm giờ phải được người lao động đồng ý, đảm bảo số giờ làm thêm không quá 50% giờ làm việc bình thường trong ngày.
Luật chỉ mở rộng khung giờ làm thêm tối đa 300 giờ mỗi năm cho một số ngành nghề, như sản xuất gia công xuất khẩu hàng dệt may, da giày, chế biến nông lâm, thủy sản, sản xuất và cung cấp điện, viễn thông, lọc dầu, cấp thoát nước, diêm nghiệp, điện, điện tử.
Ông Lê Đình Quảng, Phó ban Chính sách, Pháp luật (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) cho rằng, thời gian nghỉ ngơi, thời gian làm việc được xem xét rất kỹ trong Luật Lao động năm 2019.
Theo Luật Lao động thì làm thêm giờ có 3 giới hạn. Đó là làm thêm giờ trong ngày, làm thêm trong tháng quy định không quá 40 giờ mỗi tháng; làm thêm giờ trong năm không quá 200 giờ mỗi năm. Với một số công việc nhất định như dệt may; da giày... làm không quá 300 giờ/năm.
Do dịch bệnh Covid-19 ảnh hưởng đến quá trình sản xuất, nhiều doanh nghiệp bị gián đoạn đơn hàng nên việc đề xuất tăng giờ làm thêm là cần thiết. Việc này thể hiện sự đồng hành chia sẻ khó khăn của Chính phủ với doanh nghiệp sản xuất nhằm duy trì chuỗi cung ứng toàn cầu. Tuy nhiên, tăng giờ làm thêm cần phải tính toán kỹ để đảm bảo sức khỏe, an toàn cho người lao động.