Về vấn đề này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải trình với Quốc hội như sau: Luật Bảo vệ và Phát triển rừng (BV&PTR) hiện hành và dự thảo Luật BV&PTR (sửa đổi) đều quy định nguyên tắc giao rừng, cho thuê rừng phải thống nhất, đồng bộ với giao đất, cho thuê đất (khoản 5 Điều 19).
Tuy nhiên, thực tiễn triển khai thực thi Luật BV&PTR đối với rừng sản xuất là rừng tự nhiên có hai vấn đề đặt ra:
Một là, tại Điều 135 Luật Đất đai (2013) không quy định giao đất rừng sản xuất là rừng tự nhiên cho cộng đồng dân cư; Điều 29 Luật BV&PTR (2004) quy định giao rừng cho cộng đồng dân cư nhưng không quy định rõ loại rừng nào.
Để quản lý diện tích rừng này, ở nhiều địa phương đã giao cho cộng đồng dân cư quản lý trên 1,12 triệu ha (những năm 2004 nhiều đối tượng được giao rừng không có nhu cầu nhận).
Đến nay, các diện tích rừng này đã được cộng đồng dân cư quản lý, bảo vệ có hiệu quả, không có tranh chấp, phục vụ thiết thực đời sống, sinh hoạt của cộng đồng dân cư, cho xã hội nói riêng và cho kinh tế - xã hội nói chung, góp phần bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia. Nếu thực hiện theo Điều 135 Luật Đất đai thì các diện tích này phải thu hồi lại và giao cho các tổ chức quản lý rừng quản lý.
Các đại biểu thảo luận ở hội trường về dự án Luật Bảo vệ và phát triển rừng (sửa đổi) |
Như vậy, sẽ làm phát sinh thủ tục chuyển đổi chủ sử dụng rừng không cần thiết; mặt khác sau khi thu hồi rừng của cộng đồng giao cho các tổ chức quản lý rừng sẽ vẫn phải giao khoán cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư tại chỗ, chính họ là cộng đồng dân cư được giao rừng trước đó.
Để khắc phục tình trạng này, ngày 6/1/2017 Chính phủ đã ban hành Nghị định 01/2017/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai, trong đó có quy định giao đất rừng sản xuất là rừng tự nhiên cho cộng đồng dân cư.
Hai là, việc giao, cho thuê rừng sản xuất là rừng tự nhiên cho các tổ chức kinh tế được thực hiện theo Luật BV&PTR năm 2004 (khoản 3 Điều 24, khoản 3 Điều 25).
Hiện nay, Nhà nước đã giao 1,145 triệu ha rừng sản xuất là rừng tự nhiên cho các công ty lâm nghiệp nhà nước. Để quản lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên này, Dự thảo Luật đã quy định cho thuê rừng sản xuất là rừng tự nhiên đối với tổ chức kinh tế để phù hợp với quy định của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công (Điều 119 và Điều 120).
Vì vậy, UBTVQH đề nghị Quốc hội tiếp tục cho giữ quy định giao rừng sản xuất là rừng tự nhiên cho cộng đồng dân cư (điểm a khoản 3 Điều 21); cho tổ chức kinh tế thuê rừng sản xuất là rừng tự nhiên (Điều 22) đến hết thời hạn được giao, cho thuê để phù hợp với thực tiễn giao rừng, cho thuê rừng sản xuất là rừng tự nhiên hiện nay. Điều đó sẽ không làm xáo trộn chủ thể quản lý rừng và phát sinh thủ tục hành chính cũng như các chi phí chuyển đổi không cần thiết.
Đồng thời, để thuận lợi cho việc triển khai thực hiện khi Luật có hiệu lực thi hành, khoản 2 Điều 114 Dự thảo Luật đã quy định rõ chủ rừng là tổ chức kinh tế được Nhà nước giao, cho thuê rừng sản xuất là rừng tự nhiên trước ngày Luật này có hiệu lực thì được tiếp tục thực hiện đến hết thời hạn được giao, cho thuê và sau đó phải chuyển sang thuê rừng.
- Có ý kiến đề nghị Dự thảo Luật cần có quy định cho tổ chức kinh tế thuê rừng phòng hộ, rừng đặc dụng để thống nhất với quy định tại Điều 136, Điều 137 của Luật Đất đai.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, các quy định tại Điều 136, Điều 137 Luật Đất đai cho tổ chức kinh tế thuê đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng được kết hợp với kinh doanh cảnh quan, du lịch sinh thái là phù hợp với Luật BV&PTR năm 2004.
Tuy nhiên, tổng kết thực tiễn quản lý, bảo vệ rừng thời gian qua cho thấy, các diện tích rừng đặc dụng, rừng phòng hộ là rừng tự nhiên giao cho các tổ chức kinh tế hầu hết chưa được quản lý, bảo vệ đúng mục đích, có tình trạng lợi dụng quyền là chủ rừng để khai thác lâm sản trái phép.
Trong bối cảnh tình trạng phá rừng, mất rừng tự nhiên diễn biến phức tạp, ảnh hưởng lớn tới chức năng phòng hộ, bảo vệ môi trường, bảo vệ đa dạng sinh học thì trong Dự thảo Luật chỉ quy định giao rừng phòng hộ, rừng đặc dụng cho các chủ quản lý là tổ chức kinh tế như quy định tại điểm c, đ của khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 21; với các quyền và nghĩa vụ được quy định cụ thể tại Điều 82, Điều 83 và không quy định cho tổ chức kinh tế thuê rừng đặc dụng, rừng phòng hộ để tránh bị lợi dụng. Trong trường hợp các tổ chức kinh tế muốn tiến hành các hoạt động kinh doanh cảnh quan, du lịch sinh thái thì vẫn có thể hợp tác, liên kết với chủ rừng để thuê môi trường rừng.
Vì lý do nêu trên, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho giữ nội dung này như quy định tại Điều 22 của Dự thảo Luật.