Dạy văn là phải bình văn

GD&TĐ - Đã mấy chục năm trôi qua mà lớp nhà giáo đã nghỉ hưu như chúng tôi vẫn còn nhớ như in những giờ dạy văn của một số thầy hồi còn học cấp II, cấp III hay đại học. Đó chính là nhờ những giây phút được “thăng hoa” nghe các thầy bình văn.

Dạy văn là phải bình văn

1.

Hiện nay, một số giáo viên dạy văn mà như người đánh vật, lúc nào cũng lo cháy giáo án, lúc nào cũng sợ các em không hiểu bài. Bài văn không được phân tích theo thông điệp nghệ thuật mà văn bản vốn có, ngược lại nó bị băm nát, gán ghép, mổ xẻ theo một loạt những câu hỏi rời rạc; trò thay nhau đọc, thầy giải thích ý nghĩa nội dung, nghệ thuật, rồi rút ra bài học ghi nhớ. Và các thầy gọi đó là dạy văn theo phương pháp “nêu vấn đề”, thầy chủ đạo, trò chủ động. Vì thế, trò “chủ động” chép được bao nhiêu thì chép, câu chẳng ra câu, không phân biệt được các ý chính, ý phụ. Còn thầy thì chăm chú thao tác sao cho xong giáo án đúng giờ quy định, và lo cho học sinh đối phó với thi cử.

Một thực tế mà không ai chối cãi là lâu nay các em ít yêu thích môn Văn, vì nhiều học sinh không cảm được nó hay ở chỗ nào. Điều đó có lý do ở người dạy. Nhiều thầy cô quên mất đặc trưng của văn học, dạy văn mà cứ như dạy chính trị, giáo dục công dân hay sử, địa. Suốt 45 phút không thấy có một lời bình văn,không khai thác được những “điểm sáng thẩm mỹ” của hình tượng văn học. Quanh đi quẩn lại chỉ thầy trò vấn đáp rời rạc, rồi nếu có màn hình vi tính thì cho các em xem vài cảnh đẹp thiên nhiên, con người, ảnh tác giả, nhân vật… Học sinh ra khỏi lớp là quên hết, dồn sức để giải bài tập các môn tự nhiên, để thi vào khối A, B dễ kiếm việc làm và có lương cao, dễ xin việc sau khi ra trường.

Sở dĩ đã mấy chục năm trôi qua mà lớp nhà giáo đã nghỉ hưu như chúng tôi vẫn còn nhớ như in những giờ dạy văn của một số thầy hồi còn học cấp II, cấp III hay đại học chính là nhờ những giây phút được “thăng hoa” nghe các thầy bình văn. Những giây phút đó trí tưởng tượng của chúng tôi được “bay lên” cùng những vần thơ giàu tính họa, tính nhạc, hoặc được sống với những nhân vật trong văn xuôi, kịch. Đúng như nhà thơ Xuân Diệu đã nói: “Mỗi áng văn, lời thơ là một cá lội, con bướm bay, con chim hót. Việc nghiên cứu giảng dạy thơ văn là phải đưa vào trái tim người đọc cái kỳ diệu của chim hót, bướm bay, cá lội, chứ không phải làm cho bướm ép dẹp, chim nhồi rơm và cá chết khô”. Một lời bình hay, đúng lúc, đúng chỗ sẽ nâng cao giá trị thẩm mỹ của bài văn, bài thơ, khơi dậy ở trái tim các em tình yêu người, yêu đời để các em biết ghét cái ác, cái xấu mà hướng tới chân, thiện, mỹ.

Còn nếu dạy văn mà cứ như dạy ngữ pháp, hay dạy cách làm văn với mấy chục câu hỏi lý trí, vô bổ, thì hỡi ôi, chẳng khác nào nước xối đầu vịt, nước đổ lá khoai. Thậm chí có thầy cô còn chưa biết đọc diễn cảm, chứ chưa nói đến ngâm thơ khi cần để minh hoạ. Hồi còn đi dạy, tôi đã cố gắng tập ngâm thơ, tập đọc diễn cảm đối với văn xuôi, kịch, văn tế, hịch, các thể thơ, hoặc tập hát các làn điệu dân ca. Sau này khi công nghệ thông tin truyền thông, internet và vi tính phát triển thì có khi tôi còn ghi âm lại các bài thơ, bài văn hay, minh họa cho bài giảng, mở cho các em nghe, rồi tu sửa cho tới khi ưng ý. Tất cả các bài thơ và những đoạn văn xuôi, đoạn kịch hay chúng tôi đều thuộc lòng.

Hiện nay, rất buồn khi một số thầy cô giảng thơ mà chưa thuộc nổi bài thơ ấy, lúc nào cũng phải dán mắt vào sách giáo khoa và giáo án thì làm sao có lời bình hay được. Đã có một thời các cụ đồ Nho gọi dạy văn là bình văn thông qua cách đọc diễn cảm. Trong phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, các buổi diễn thuyết người ta thường xen vào việc bình văn để thu hút người nghe:

Buổi diễn thuyết người đông như hội

Kỳ bình văn khách tới như mây

Nói vậy không có nghĩa là bảo thủ theo lối dạy xưa, hay không coi trọng việc cải tiến phương pháp giảng dạy bộ môn Ngữ văn hiện nay. Việc người thầy làm “đạo diễn” đứng sau “sân khấu” ở vị trí thứ hai để chủ đạo còn học trò được đưa lên vị trí số một là chủ động để tự tìm hiểu, tiếp thu văn bản, thầy không cảm thụ thay cho trò là điều đáng khuyến khích. Nhưng có một thực tế là các bài văn, bài thơ ở các bộ sách đã cải tiến vẫn còn rất dài. Tác phẩm thì học sinh chưa được đọc, thậm chí một số thầy cô cũng chưa đọc, nhất là những tác phẩm văn học nước ngoài.

Dạy trích đoạn “Uy-lit-xơ trở về” mà chưa được đọc sử thi “Ô-đi-xê” của Homer thì làm sao bình được tâm trạng của Uy-lít-xơ. Dạy “Hồi trống cổ thành” (hồi 28) mà chưa đọc “Tam quốc diễn nghĩa” của La Quán Trung thì làm sao hiểu được một phần tính cách của nhân vật Quan Công, Trương Phi. Dạy “Hoàng hạc lâu” của Thôi Hiệu mà không đọc thơ Đường, thơ Tống thì làm sao cảm được hết cái hay của nó. Chỉ bốn câu Nguyễn Du tả tiếng đàn của Thuý Kiều buổi đầu đánh cho Kim Trọng nghe mà người dạy không đọc “Tì bà hành” của Bạch Cư Dị thì làm sao thấy được cái tài “vay mượn” rất khéo léo và sáng tạo của Nguyễn Du trong việc tả tiếng đàn trực tiếp hay gián tiếp…

2.

Hiện nay, nhiều thầy cô còn bận “đánh vật” với miếng cơm manh áo đời thường còn đâu thời giờ để đi thư viện đọc các tác phẩm dài hàng mấy trăm trang, tiền đâu để mua các sách văn học có liên quan đến chương trình văn ở các lớp. Đó là chưa kể một số thầy cô lớn tuổi hạn chế sử dụng vi tính và internet. Nếu không đọc-hiểu sâu về tác phẩm thì không thể có lời bình đúng và hay. Cũng có thầy cô nhờ chất giọng tốt qua những lời bình văn được các em yêu thích nhưng lại quá lạm dụng, thành ra lời bình ấy thiên về “tán”, “bốc đồng” giông dài, ngẫu hứng mà thôi. Có khi nó phản tác dụng là góp phần “băm nát” hình tượng thơ theo kiểu “chẻ sợi tóc làm tư”, hoặc gán cho bài thơ, bài văn nhiều nội dung xã hội “dung tục” mà tác phẩm ấy vốn không chứa đựng. Bình thơ theo kiểu thoát ly văn bản, bình cho sướng miệng, lọt lỗ tai nhưng thực ra trò chẳng nắm được gì, thì đó là dạy văn theo “điệu sáo”, theo kiểu “múa chữ” như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng có lần đã phê phán.

Nếu không có năng khiếu bình thơ, bình văn, không biết ngâm thơ thì hãy cố đọc diễn cảm bài thơ, bài văn đó cho tốt. Đọc lần thứ nhất chỉ là “bì phu” (mới sờ tới phần “da” của tác phẩm), đọc lần thứ hai hiểu thêm một tầng nghĩa nữa, là cách đọc “cốt nhục” (hiểu được xương, thịt của tác phẩm), và đọc đến lần thứ ba, thứ tư là “hút tủy”, tức đã hút được phần chất “hồn” của tác phẩm.

Đánh giá cao vai trò đọc văn, GS-TS Trần Đình Sử đã đưa ra đề nghị: “Theo tôi gọi môn văn trong nhà trường là môn dạy đọc văn là đúng nhất và sát nhất”. Tuy nhiên nhận định trên mới chỉ là “điều kiện cần nhưng chưa đủ”, còn nhiều điều phải bàn thêm. Song, nếu dạy văn mà thầy và trò không được đọc tác phẩm, hoặc có tác phẩm mà không biết cách đọc thì khó thẩm thấu nổi cái hay, cái đẹp của tác phẩm ấy. Điều đáng buồn là hiện nay “văn hóa đọc” đang bị xuống cấp. Người thầy muốn thắp sáng ngọn lửa tình yêu văn chương trong tâm hồn học sinh thì trước hết hãy thổi bùng ngọn lửa văn chương trong trái tim của mình, để các em có lòng yêu tiếng Việt:

Tiếng tha thiết nói thường như hát

Kể mọi điều bằng ríu rít âm thanh

Như gió nước không thể nào nắm bắt

Dấu huyền trầm, dấu ngã chênh vênh.

...

Ôi tiếng Việt suốt đời tôi mắc nợ

Quên nỗi mình, quên áo mặc cơm ăn

Trời xanh quá môi tôi hồi hộp quá

Tiếng Việt ơi, tiếng Việt ân tình.

(Tiếng Việt – Lưu Quang Vũ)

Cùng với các thao tác khác trong quá trình dạy văn, lời bình hay sẽ có một ý nghĩa rất quan trọng. Thế hệ chúng tôi sinh ra ở thập niên 40 của thế kỷ XX vẫn còn nhớ như in một số lời bình rất hấp dẫn của các thầy: Lê Trí Viễn, Hoàng Như Mai, Hoàng Hữu Yên, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Đình Chú, Phan Cự Đệ… Hành trang ấy đã giúp chúng tôi có được những học sinh giỏi văn đạt giải cấp quốc gia, hoặc nhiều em nay đã là Tiến sĩ công tác ở Viện Văn học, ở nước ngoài, hoặc dạy ở một số trường đại học, làm cán bộ chuyên môn, quản lý ở các sở, ban, ngành… Kết quả đó tôi luôn xem là một “phần thưởng vô giá” đối với việc dạy văn nói riêng và nghề dạy học nói chung.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ