Dạy thật – học thật có khó?

GD&TĐ - Khó khăn của dạy thật – học thật đôi khi không phải từ phía nhà trường mà ở “rào cản” bên ngoài.

Giáo viên chủ nhiệm hỗ trợ riêng cho HS gặp khó khăn về học. Ảnh: NTCC
Giáo viên chủ nhiệm hỗ trợ riêng cho HS gặp khó khăn về học. Ảnh: NTCC

Phụ huynh không thừa nhận kết quả học tập của con

4 năm học trở lại đây, năm nào Trường Tiểu học Võ Thị Sáu (quận Hải Châu, TP Đà Nẵng) cũng có khoảng 20 HS ở lại lớp, dù đã được ôn tập và kiểm tra lại trong hè. Phụ huynh cũng thôi “xin xỏ, năn nỉ”, hoặc gây áp lực với Ban giám hiệu (BGH) để con được lên lớp. 

Thầy Nguyễn Thái Phong – Hiệu trưởng Trường Tiểu học Võ Thị Sáu (quận Hải Châu, TP Đà Nẵng) kể: Năm học 2018 – 2019, năm thứ 2 nhà trường có số HS ở lại lớp “kỷ lục” với 22 em.

Nhưng BGH không hề chịu áp lực nào từ phía phụ huynh. Năm học trước đó, không ít bố mẹ “sốc” và không chấp nhận sự thật rằng con mình học kém, gặp khó khăn về học. Phụ huynh gặp BGH vừa năn nỉ vừa tạo áp lực để xin cho con được lên lớp.

Nhà trường phải kiên trì động viên, giải thích để một HS lưu ban, GV và nhà trường đều vất vả, nhưng trẻ cần có thêm thời gian để đáp ứng các kỹ năng tối thiểu cần thiết. Để một HS lên lớp khi không đủ chuẩn là tội ác vì càng lên lớp trên, các em càng đuối, không theo kịp các bạn khi kiến thức nhiều, yêu cầu cao hơn.

Không khó để nhận ra sự khác biệt của những em gặp khó khăn về học, nhất là ở năm đầu cấp, dù gần như không phụ huynh nào thừa nhận. Thầy Phong cho biết: Chỉ sau 1 - 2 tháng đầu của năm học, GV lớp Một đã nắm được tình trạng, mức độ tiếp nhận của HS và trao đổi với phụ huynh, báo cáo lên BGH nhà trường để có kế hoạch phối hợp hỗ trợ.

“Lúc đầu, phụ huynh nào cũng phản đối quyết liệt, cho rằng con họ bình thường, không bị rối loạn hành vi và nhận thức. Nhà trường vừa phải có kế hoạch giáo dục cá nhân để hỗ trợ cho HS, vừa phải kiên trì thuyết phục cha mẹ HS cùng phối hợp” – thầy Phong chia sẻ.

Như trường hợp em T.N, sau học kỳ I của năm học lớp Một, BGH Trường Tiểu học Võ Thị Sáu và GV chủ nhiệm kiên trì thuyết phục, động viên, phụ huynh mới bắt đầu hợp tác, chịu đưa con đi đánh giá tình trạng và xin nhà trường tạo điều kiện cho em theo học các lớp can thiệp ở ngoài vào buổi chiều nhưng vẫn kiên quyết không làm hồ sơ cho con.

Hay như trường hợp em T.B, dù có 2 năm học lớp Một, 2 năm học lớp Hai nhưng phụ huynh nhất định không thừa nhận con mình gặp khó khăn về học tập. Không có hồ sơ HS khuyết tật nên trong kiểm tra, đánh giá, nhà trường không thể giảm yêu cầu với em được. 

Học sinh Trường Tiểu học Núi Thành tham gia hoạt động ngoại khóa Nâng cao kỹ năng sử dụng Internet, mạng xã hội.
Học sinh Trường Tiểu học Núi Thành tham gia hoạt động ngoại khóa Nâng cao kỹ năng sử dụng Internet, mạng xã hội. 

Nhà trường không chịu áp lực khi có HS lưu ban

Ông Trần Nguyễn Minh Thành – Phó GĐ Sở GD&ĐT Đà Nẵng cho biết: Bất cứ một lĩnh vực nào, chất lượng cũng đặt lên hàng đầu. Tuy nhiên, xếp hạng thi đua một trường không chỉ căn cứ vào tỉ lệ HS lên lớp, số lượng HS giỏi, HS đạt giải các cuộc thi mà còn có nhiều tiêu chí để đánh giá. Vì vậy, các trường không thể cứ “đôn” chất lượng, HS lên lớp 100% để có thành tích trong dạy – học. Để HS lưu ban, học đúng với giai đoạn phát triển của mình sau khi có nhiều giải pháp hỗ trợ hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến thi đua của nhà trường. 

Trường Tiểu học Núi Thành (quận Hải Châu) những năm qua cũng kiên quyết không “chiếu cố” học sinh. Cô Huỳnh Thị Thu Nguyệt – Hiệu trưởng nhà trường kể lại trường hợp em T. từng được giáo viên chủ nhiệm lớp 1 châm chước cho lên lớp 2 dù kỹ năng đọc còn chậm.

“Lên lớp 2, em bị đuối ngay, không theo kịp các bạn và phải lưu ban sau khi tổ chức đánh giá lại trong hè. Nhưng năm học tiếp theo, dù GV chủ nhiệm đã kèm cặp, hỗ trợ rất nhiều, đưa về nhà phụ đạo thêm trước mỗi kỳ kiểm tra, T. vẫn tiếp thu chậm. GV chủ nhiệm và BGH đã nhiều lần trao đổi với phụ huynh, nên cho con đi bệnh viện hoặc trung tâm chuyên biệt kiểm tra.

Thế nhưng lần trao đổi nào, ba mẹ em cũng đều không chấp nhận việc con chậm phát triển hơn các bạn và cho rằng con họ bình thường” – cô Nguyệt tâm sự. Ngoài em T. trong trường còn có một HS lớp 5, nếu đúng độ tuổi, em phải là HS lớp 8.

Cô Huỳnh Thị Thu Nguyệt cho hay: Với HS dù đã được kèm cặp nhưng khả năng tiếp thu quá thấp, nhà trường sẽ động viên, thuyết phục, thậm chí hỗ trợ phụ huynh làm hồ sơ khuyết tật cho HS để học hòa nhập.

Thế nhưng, phụ huynh gần như không hợp tác. “Chỉ khi số năm học các em lưu ban sắp vượt ngưỡng quy định, ba mẹ mới bổ sung hồ sơ cho con. Điều này làm GV và nhất là HS vất vả cả một quá trình dài trước đó. Nếu có hồ sơ dạng khuyết tật trí tuệ, HS chỉ học hòa nhập về kỹ năng và những môn học các em thích và có khả năng tiếp thu” – cô Nguyệt chia sẻ.

Lãnh đạo nhiều trường tiểu học cũng cho rằng, với HS lớp 5, việc kiểm tra định kỳ sẽ “gác” chặt hơn vì còn có sự tham gia của GV trường THCS. Trường tiểu học cũng phải bàn giao chất lượng giáo dục HS hoàn thành chương trình cấp học cho các trường THCS. “Không một trường tiểu học nào muốn nghe trường THCS phàn nàn về chất lượng HS trong các cuộc giao ban nên đều phải dạy thật – học thật và đánh giá thật” – cô Nguyệt nhận định.

Từ kinh nghiệm nhiều năm nghiên cứu về giáo dục hòa nhập cho trẻ tự kỷ, trẻ cá biệt, thầy Nguyễn Thái Phong nhận xét: Đa phần trẻ sẽ phát triển ổn định ở vài năm sau đó nếu được theo dõi, đồng hành và hỗ trợ tích cực từ phía nhà trường và gia đình. Chấp nhận sự cá biệt của HS, từ cả phụ huynh và thầy cô giáo, cũng là cách để HS hòa nhập.

“Từ khi Bộ GD&ĐT đổi mới cách đánh giá HS gần như các trường học đều không còn áp lực về việc HS lưu ban. Có ít hay nhiều HS ở lại lớp cũng không ảnh hưởng gì đến thành tích thi đua của các trường. Vấn đề còn lại là ở tâm lý con người, trong đó có cả GV, BGH nhà trường cũng như phụ huynh” - thầy Phong khẳng định.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ