Làm việc theo hợp đồng
Để được xem là công chức, GV phải trải qua một cuộc thi mở, để đánh giá kiến thức môn học mà GV đang giảng dạy và cả kinh nghiệm làm việc. Những cuộc thi này luôn thu hút nhiều GV tham gia. Ở Tây Ban Nha, có khoảng 25% GV làm việc theo hợp đồng và mỗi khu vực có sự khác biệt đáng kể, chẳng hạn như tại Galicia (một cộng đồng tự trị ở phía Bắc) là 13%, trong khi ở Balearic (một quần đảo ngoài khơi phía Đông) là 41%.
Do tỷ lệ các GV làm việc theo hợp đồng được phân công giảng dạy tại trường có xu hướng khác nhau theo từng năm, nên gây khó khăn trong việc ổn định và tạo sự gắn kết giữa các trường với nhau. Vào năm 2018, một cuộc thi dành cho GV cấp THCS, bao gồm giáo dục và đào tạo dạy nghề, đã được tổ chức, nhằm cung ứng cho 23.689 việc làm. Tuy nhiên, số người tham gia cuộc thi này thấp hơn so với dự kiến, nên không thể đáp ứng số GV cho một số khu vực nhất định.
GV ngày càng già hóa
Trong năm 2016 và 2017, có khoảng 7,3% GV, từ cấp tiểu học đến trung học, có độ tuổi 30. 28,5% GV độ tuổi từ 30 - 40, 30% từ 40 - 50 tuổi, và 34,2% trên 50 tuổi, gần với mức trung bình của khối EU. Đối với hệ ĐH, vào năm 2017, có 44% GV trên 50 tuổi và chỉ có 3,6% GV dưới 30 tuổi. Vì thế, theo ước tính của các chuyên gia giáo dục, việc đổi mới về đội ngũ GV trong thập kỷ tới, là rất cần thiết. Hiện, có khoảng 94,5% GV hệ mầm non và 66,2% GV tiểu học và trung học là nữ. Trong giáo dục ĐH, có 43,4% giảng viên nữ, khoảng 52,7% giảng viên học viện dưới 35 tuổi, và 37,2% trong số này là những người trên 50 tuổi. Điều này cho thấy có sự mất cân bằng về giới tính.
Trình độ của GV được đặt lên hàng đầu
GV hệ mầm non và tiểu học cần có bằng ĐH chuyên về giáo dục mầm non hoặc tiểu học. Trong khi đó, các GV trung học cần có bằng ĐH. Để được bổ nhiệm vào các trường công, GV cần trải qua một quá trình thực tập, từ 3 tháng cho đến 1 năm, khác nhau tùy theo mỗi vùng, nhưng giống nhau về nội dung thực tập.
Năm 2018, hầu như 10.000 GV Tây Ban Nha đã tham gia theo học các khóa học trực tuyến do Viện Công nghệ Giáo dục và Đào tạo quốc gia (INTEF) tổ chức, và 34.000 GV theo học các khóa đào tạo trực tuyến. Theo ghi nhận của Khảo sát Quốc tế Học tập Tây Ban Nha (TALIS), vào năm 2019, việc thiếu những khuyến khích dành cho các GV là rào cản chính trong việc phát triển chuyên môn liên tục.
Khảo sát này còn cho thấy, một khi đã hoàn thành giáo dục chính quy, thì tỷ lệ GV có kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong việc giảng dạy, ở mức tốt hoặc tốt hơn, sẽ thấp hơn so với mức trung bình của khối EU, là 36,2% so với 39,4%. Có khoảng 38% GV cho biết, công nghệ thông tin và truyền thông đã được đưa vào chương trình giáo dục chính thức của họ, và con số này tăng đáng kể, khoảng 85,8% ở những GV đã giảng dạy trong 5 năm.
Số giáo viên giữ vị trí lãnh đạo của trường thường không nhiều
Trong hệ thống giáo dục ở Tây Ban Nha, lãnh đạo của trường cũng đồng thời là GV. Họ được Hội đồng nhà trường (bao gồm đại diện phụ huynh và học sinh, GV và ban quản trị nhà trường) bầu chọn thông qua một quá trình làm việc liên tục. Ứng viên quản lý phải có ít nhất 5 năm kinh nghiệm đứng lớp và đã tham gia một khóa đào tạo dự bị. Nhiệm kỳ của họ là thường 4 năm, chỉ đảm nhiệm chức vụ trong 1 lần duy nhất.
Việc tuyển dụng các vị trí lãnh đạo nhà trường thường thu hút ít ứng viên. Nguyên nhân là do tính chất tạm thời của công việc, vì sau đó GV sẽ trở lại giảng dạy tại cùng trường đó. Gánh nặng của nhiệm vụ quản lý trong thời gian đương chức và thiếu quyền tự chủ khiến nhiều GV không muốn làm quản lý trường học.