Trước đó, người Lệ Mật có nghề bắt rắn - liên quan tới giai thoại ông tổ nghề họ Hoàng.
Dũng sĩ họ Hoàng diệt thủy quái
Theo nghiên cứu của PGS.TS Bùi Xuân Đính, làng Lệ Mật hồi cuối thời Lê đầu thời Nguyễn là một xã thuộc tổng Gia Thụy, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc. Làng vốn có tên là Trù Mật nhưng có lẽ do kỵ húy chúa Trịnh Chù (Trịnh Cương) nên sau đổi thành Lệ Mật và giữ nguyên tên cho đến ngày nay.
Chuyện kể rằng, vào đời vua Lý Thái Tông (1028 - 1054), có một công chúa cưng của vua thường du thuyền trên dòng Thiên Đức (tức sông Đuống). Một ngày nọ, không may thuyền bị đắm, công chúa chết đuối. Vua ra lệnh, nếu ai vớt được ngọc thể công chúa thì sẽ phong chức tước và thưởng công rất trọng hậu.
Tuy đã có rất nhiều tướng sĩ triều đình cùng thanh niên trai tráng các làng tham gia tìm kiếm, nhưng không ai tìm được. Lúc bấy giờ có chàng thanh niên tên là Hoàng Đức Trung (có tư liệu viết là Hoàng Ngọc Trung) làm nghề bắt rắn ở làng Lệ Mật nhờ lòng can đảm, biệt tài bơi lội và giỏi nghề bắt rắn đã kiên nhẫn kiếm tìm và dũng cảm chiến đấu với thủy quái giữa vùng nước xoáy, giành lại được ngọc thể của công chúa.
Vua giữ lời hứa, phong cho chàng trai làm chức quan lớn trong cung và ban thưởng nhiều vàng bạc gấm vóc, nhưng chàng đã từ chối tất cả, chỉ xin vua cho phép đưa dân nghèo làng Lệ Mật và mấy làng lân cận sang khai khẩn vùng đất phía Tây kinh thành Thăng Long làm trang trại.
Được vua ưng thuận và khuyến khích, chàng đã dẫn dân chúng làng Lệ Mật vượt dòng Nhị Hà (tức sông Hồng) sang khai hoang vùng đất phía Tây thành Thăng Long. Dần dần, vùng đất ấy trở nên trù phú, sau đó nơi đây được mở rộng thành 13 trại ấp mà sử sách vẫn gọi với cái tên khu “Thập tam trại” (các làng Cống Vị, Cống Yên - tức Vĩnh Phúc, Đại Yên, Giảng Võ, Hữu Tiệp, Kim Mã, Liễu Giai, Ngọc Hà, Ngọc Khánh, Thủ Lệ, Vạn Phúc hay Vạn Bảo, Vạn Yên, Yên Biểu thuộc quận Ba Đình ngày nay).
Sau khi khai lập được 13 trại, chàng trai họ Hoàng quay về củng cố làng cũ, rất trù phú nên gọi là Trù Mật - hay còn gọi là “cựu quán”, dân cư rất đông (năm 1926 có đến 7.202 nhân khẩu); còn các làng khu “Thập tam trại” gọi “kinh quán”. Sau khi chàng họ Hoàng qua đời, người dân làng Lệ Mật đã lập đình thờ chàng ở rìa phía Nam làng Lệ Mật, bên bờ Nam sông Đuống, suy tôn là “Ông Hoàng Lệ Mật” và được nhiều làng trong khu “Thập tam trại” tôn làm Thành hoàng.
Hằng năm, vào ngày 23/3, dân làng Lệ Mật tổ chức lễ hội tưởng niệm đức thánh Thành hoàng với những nghi thức trang trọng. Đặc biệt là hình nộm tái hiện một con rắn khổng lồ, tượng trưng cho thủy quái xưa. Bên cạnh đó là một phụ nữ xinh đẹp được chọn đóng làm công chúa. Các thanh niên to khỏe làm những động tác tiêu diệt thủy quái, cứu công chúa trong câu chuyện lưu truyền.
Nghề nuôi rắn có từ bao giờ?
Ngoài giai thoại liên quan đến “Ông Hoàng Lệ Mật” diệt thủy quái, làng Lệ Mật còn có nghề nuôi và chế biến các món ăn từ rắn. Đáng chú ý, đây không phải là nghề mới mà được khẳng định đã có từ thời nhà Lý.
Các cụ già làng Lệ Mật rất tâm đắc với câu chuyện lưu truyền xưa về ông tổ nghề làng mình, và cho rằng vào năm Kỷ Hợi (1119) khi “Ông Hoàng Lệ Mật” qua đời, dân làng tưởng nhớ đến công ơn của đức Thành hoàng nên ngoài việc nhà nông còn phát triển thêm nghề bắt rắn, nuôi rắn. Nghề rắn cũng bắt nguồn từ đó.
Thời gian đầu dân làng Lệ Mật chỉ nuôi rắn để ngâm rượu làm thuốc chữa bệnh, như một cách để duy trì nghề và tưởng nhớ đến Thành hoàng. Trong quá trình cả nghìn năm theo nghề ấy, người Lệ Mật còn biết sử dụng da rắn để làm một số đồ gia dụng.
Mãi sau này, thịt và các món ăn chế biến từ rắn mới trở thành đặc sản của người dân và dần thu hút thực khách gần xa. Ban đầu chỉ có vài món rất đơn giản như rắn ướp muối tiêu nướng, rắn xào hành tỏi, rắn băm xào giòn… Về sau, do kinh tế phát triển và sự sáng tạo của những người giỏi bếp núc, có nhu cầu kinh doanh ẩm thực từ thịt rắn mới mở các nhà hàng, phục vụ nhiều món ăn mới lạ.
Khi nhu cầu thu mua rắn lên cao, người làng Lệ Mật tập trung nuôi rắn như một nghề thương mại. Họ chủ yếu nuôi rắn hổ ngựa, hổ mang chúa và rắn ráo - những loại rắn đem lại sản lượng thịt cao, chất lượng cũng như hương vị thích hợp để chế biến các món đặc sản.
Các món ăn từ rắn, đa số được thực khách đánh giá là ngon và bổ dưỡng. Du khách gần xa khi tới các nhà hàng sẽ được chứng kiến công đoạn bắt rắn khá hấp dẫn và cũng không khỏi thót tim. Ngoài ra, nếu có can đảm du khách còn được chứng kiến cảnh bẻ răng nanh và cắt tiết rắn. Đồng thời, các công đoạn như sơ chế, lột da, tách thịt… cũng được các đầu bếp nơi đây biểu diễn như một tài nghệ gia truyền từ tổ tiên.
Hiện nay, ở làng Lệ Mật có khoảng trên dưới 40 hộ dân duy trì nghề nuôi rắn. Làng Lệ Mật không chỉ được đánh giá là trung tâm buôn bán rắn lớn nhất miền Bắc, mà còn được đánh giá là làng rắn nổi tiếng, độc nhất ở Việt Nam và trên thế giới.
Vào tháng 4/2024, trong Tuần lễ Văn hóa - Thương mại - Làng nghề gắn với Lễ hội truyền thống đình làng Lệ Mật, Sở Du lịch Hà Nội đã chính thức công bố “Làng rắn Lệ Mật trở thành điểm du lịch cấp thành phố”, tạo tính chính danh cho một làng nghề truyền thống độc đáo của Hà Nội phát triển và thu hút khách du lịch.
Đại lễ Lệ Mật: Kinh - cựu gặp nhau
Không chỉ nổi tiếng về đặc sản rắn, Lệ Mật có những di sản lịch sử văn hóa độc đáo, như: Miếu thờ vị công chúa con vua Lý Thái Tông; đình Thượng được dựng đầu tiên (nay không còn), thờ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm và đình Hạ thờ dũng sĩ họ Hoàng.
Theo người làng Lệ Mật, trước đây ngôi đình Hạ nằm ở vị trí khác. Tương truyền được xây từ đời vua Lý Nhân Tông (1073 - 1127). Theo tấm bia đá còn lưu trong đền thì từng có một đợt trùng tu lớn vào thế kỷ 16. Năm 1670 dưới đời vua Lê Huyền Tông (1662 - 1671), Đại nguyên soái Trương Phúc Bảo đã cúng tiền, gỗ, sắt và tổ chức đại tu; ở hậu cung còn có bức hoành phi đề “Thượng Đẳng Từ” với chữ mang phong cách sắc phong thời Lê trung hưng.
Về sau ngôi đình đã nhiều lần được tiếp tục tôn tạo, mở rộng. Khoảng đầu thế kỷ trước, các cụ rời chùa sang bên phải để lấy đất dựng lại đình. Đình được xây dựng theo kiểu kiến trúc thời Nguyễn, hiện còn khá nguyên vẹn. Phía trước có ao và sân rộng - nơi thường gắn với nhiều sinh hoạt của lễ hội, đặc biệt là việc diễn lại tích dũng sĩ họ Hoàng đấu với thủy quái.
Cạnh hồ, giữa hai hàng cây có con ngõ rộng lát gạch dẫn thẳng đến tam quan xây 2 tầng 8 mái, trên đắp các hình rồng rắn. Sau tam quan là hai nhà giải vũ 3 gian ở hai bên hòn non bộ với bức cuốn thư ở giữa làm bình phong che chắn. Cuối sân, một nghi môn nội ngăn cách giữa không gian sinh hoạt cộng đồng với chốn linh thiêng.
Đầu hai trụ chính đặt tượng lân ngồi, nối giữa cột cái và cột nạnh là một bức tường có mái, thân tường đắp voi cõng bành như nhằm tôn vinh chiến công của đức Thành hoàng làng. Giữa hai trụ biểu có một tòa phương đình cũng xây 2 tầng 8 mái với hai nhà tả hữu mạc 5 gian ở hai bên, còn tòa đại bái ở ngay sau phương đình. Nhà đại bái rộng 7 gian 2 dĩ, đầu hồi bít đốc và hậu cung sâu 4 gian kết nối với nhau theo hình chữ “Đinh”.
Hai gian trong cùng ở hậu cung chính là khám thờ Thành hoàng với pho tượng gỗ và long ngai bài vị của “Ông Hoàng Lệ Mật”. Gần đây, đình được bổ sung một pho tượng Thần to như người bình thường.
Giới chuyên gia đánh giá rằng, thực ra thì phần nhiều đình làng chỉ có ngai và vị. Đình có tượng Thần chỉ khi ý nghĩa khởi nguyên bị thay đổi, hay nhiều tính chất “đền” thờ Thần đã được thâm nhập mạnh hơn vào đình. Có lẽ, đây là một hiện tượng với đình Lệ Mật.
Hiện trong đình còn giữ lại được khá nhiều hiện vật có giá trị lịch sử - văn hóa. Trong số đó đáng kể có bản sắc phong niên đại Vĩnh Khánh (1730), tấm bia khắc năm Dương Đức thứ 3 đời vua Lê Gia Tông (1673) và một bia đá được dựng năm Chính Hòa thứ 24 đời vua Lê Hy Tông (1702).
Lễ hội đình Lệ Mật diễn ra hàng năm từ ngày 20 – 24/3 âm lịch. Đây được coi là một dịp đại lễ của làng Lệ Mật xưa và nay để nhân dân của làng cũ (cựu quán) và của 13 trại bên kinh thành Thăng Long (kinh quán) gặp gỡ nhau, tỏ lòng biết ơn đối với những người có công khai hoang lập làng.
Vào ngày hội chính (23/3), đại diện của 13 trại xưa đội 13 mâm lễ vật mang từ Hà Nội về đình Lệ Mật để cúng Thành hoàng. Bởi vậy, người Lệ Mật và một số làng ở Ba Đình xưa vẫn lưu truyền: Nhớ ngày 23 tháng 3/ Dân trại ta vượt Nhị Hà thăm quê/ Kinh quán, cựu quán đề huề/ Hồ Tây cá nhảy đi về trong mây.
Trong ngày chính hội khi dân hai nơi cựu – kinh gặp gỡ, có tích trò diễn múa với con rắn khổng lồ được làm bằng nan tre quấn vải, tượng trưng cho loài thủy quái đã bị dũng sĩ họ Hoàng dùng sức mạnh và ý chí của mình hạ gục. Đây là một nghi thức múa tổng hợp, với trên 60 người tham gia, theo các điệu múa bồng, múa sênh, múa mõ, múa chúc tụng. Nhạc múa là dàn bát âm và tiếng trống nhịp đôi kết hợp dồn dập như cảnh xung trận.
Dân chúng còn tổ chức các cuộc thi, như: Thi rắn to, rắn đẹp, rắn lạ... phổ biến bí quyết bắt rắn, nuôi rắn, khai thác nọc, chữa rắn cắn. Hội đình Lệ Mật thu hút rất đông du khách gần xa, xe để kín đường. Ngoài việc tìm hiểu các tích trò, văn hóa dân gian của Lệ Mật, thì đa phần du khách đến làng còn để thưởng thức các món ăn đặc sản từ thịt rắn, như một tục lấy may, tăng cường sức khỏe.
Đình Lệ Mật đã được xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia vào năm 1988. Lễ hội làng Lệ Mật cũng được xếp hạng là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 4205/QĐ- BVHTT&DL ngày 19/12/2014. Thông qua sự công nhận này, dân làng Lệ Mật đã bảo lưu nhiều giá trị văn hóa độc đáo trong việc tế lễ, rước nước và nhiều loại hình văn hóa dân gian khác, trong đó phải kể đến múa nghi lễ Giảo Long và lễ Đả Ngư.