Ngoài ra, Bộ GD&ĐT cũng quy định điểm cộng khuyến khích, điểm thưởng với thí sinh có chứng chỉ ngoại ngữ không được vượt quá 10% mức tối đa của thang điểm xét.
Với quy định này, thí sinh có thể sử dụng tối đa thế mạnh ngoại ngữ của mình để tăng cơ hội trúng tuyển. Những điều chỉnh này cũng nhằm hạn chế tình trạng một số cơ sở giáo dục đại học lạm dụng việc sử dụng các chứng chỉ ngoại ngữ quốc tế trong quá trình xét tuyển như những năm trước đây.
Thực hiện Quy chế tuyển sinh cao đẳng, đại học năm 2025, các trường đại học đều công bố công thức quy đổi từ chứng chỉ ngoại ngữ quốc tế, chủ yếu là IELTS sang điểm thi môn Ngoại ngữ. Trong đó, phần lớn trường quy đổi chứng chỉ từ 5.0 trở lên tương đương với điểm 10.
Một số trường áp dụng quy đổi ở mức 4.0 tương đương với mốc điểm từ 6 - 8 điểm. Một số trường không dùng chứng chỉ ngoại ngữ quốc tế để quy đổi mà áp dụng chính sách cộng điểm khuyến khích. Mức điểm cộng dao động khá lớn, tùy vào cách tính của từng trường.
Chính sách ưu tiên cho thí sinh có chứng chỉ ngoại ngữ đã trở thành tấm giấy thông hành vào đại học trong điều kiện Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2025 có nhiều thay đổi về cấu trúc đề thi và quan điểm đánh giá. Vì vậy, mới có tình trạng bùng nổ số thí sinh sử dụng chứng chỉ ngoại ngữ quốc tế để tham gia xét tuyển sinh đại học
Từ đây, sự bất bình đẳng trong tiếp cận cơ hội học tập của thí sinh các vùng miền càng rõ nét. Bởi những thí sinh không học tập ở các thành phố lớn, nhất là địa bàn vùng sâu, xa, điều kiện để tiếp cận việc học tập và thi chứng chỉ ngoại ngữ quốc tế, đặc biệt là chi phí học tập, gần như không có.
Với môi trường đào tạo bậc đại học, cao đẳng thì ngoại ngữ là một trong những điều kiện bắt buộc của yêu cầu đầu ra. Thí sinh có chứng chỉ ngoại ngữ không chỉ có lợi thế ở đầu vào, mà còn thuận lợi trong quá trình học cũng như ở đầu ra. Thực chất việc các cơ sở giáo dục đại học yêu cầu chuẩn đầu ra về chứng chỉ ngoại ngữ đối với sinh viên là để nâng cao trình độ ngoại ngữ, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động.
Vì vậy, buộc phải có 2 điều kiện: Người học phải có lộ trình, phương pháp và thái độ học tập nghiêm túc; nhà trường phải tạo điều kiện về học ngoại ngữ cho sinh viên. Thực tế, với yêu cầu ngoại ngữ đầu ra, các trường đại học cũng không bắt buộc sinh viên phải có chứng chỉ ngoại ngữ quốc tế.
Trong khi đó, đối với VSTEP (chứng chỉ tiếng Anh theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dành cho Việt Nam) có trường dùng làm tiêu chí để xét tuyển nhưng có trường lại không công nhận. Thực trạng này đặt ra vấn đề sự chủ động trong xu hướng hội nhập quốc tế.
PGS.TS Phan Văn Hòa - nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng cho rằng, với kỳ thi đánh giá năng lực tiếng Anh theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho người Việt Nam - VSTEP, nếu có sự mềm dẻo và tăng tính khách quan trong tổ chức thi có thể trở thành chứng chỉ thông dụng trong đánh giá năng lực ngoại ngữ. Muốn như vậy, cần có ngân hàng đề đạt chuẩn, phong phú đi kèm với nền tảng luyện thi phù hợp và khâu tổ chức coi thi phải quy cũ, chặt chẽ.
Nói cách khác, cần một hệ thống đánh giá năng lực ngoại ngữ được Việt hóa đủ tin cậy, cùng với thước đo chung trong sử dụng chứng chỉ ngoại ngữ tham gia xét tuyển sinh để đảm bảo việc thi chứng chỉ ngoại ngữ quốc tế xuất phát từ nhu cầu tự thân của mỗi thí sinh, chứ không phải chìa khóa mở cánh cổng vào đại học.