(GD&TĐ) - Các điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo đã được cải thiện, tuy nhiên việc kiểm soát chất lượng đào tạo còn chưa được chặt chẽ - Đó là đánh giá của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng (VHGDTNTN&NĐ) của Quốc hội tại báo cáo kết quả giám sát việc thực hiện Nghị quyết 35/2009/QH12 và Nghị quyết 50/2010/QH12 của Quốc hội liên quan đến giáo dục ĐH mới được công bố.
![]() |
Sinh viên Trường ĐHSP Hà Nội |
Công tác tuyển sinh, mở ngành được quy định chặt chẽ hơn
Theo báo cáo giám sát, việc xác định chỉ tiêu tuyển sinh của các trường hiện nay được thực hiện dựa trên các điều kiện bảo đảm chất lượng với các tiêu chí cơ bản là diện tích sàn xây dựng và tỉ lệ giảng viên/sinh viên,…. Các điều kiện về số lượng và chất lượng đội ngũ giảng viên cơ hữu, kinh nghiệm đào tạo của cơ sở giáo dục đại học (GDĐH), yêu cầu đánh giá nhu cầu xã hội,… để được mở ngành, chuyên ngành đều được nâng cao. Quy trình kiểm tra xác nhận các điều kiện thực tế về đội ngũ giảng viên cơ hữu, đất đai, cơ sở vật chất, trang thiết bị, thư viện, giáo trình phục vụ đào tạo được quy định chặt chẽ hơn nhằm bảo đảm phát triển quy mô và cơ cấu ngành nghề đào tạo phải tương xứng với năng lực thực tế và các điều kiện bảo đảm chất lượng của các cơ sở GD ĐH.
Báo cáo cũng nêu rõ, đa số các trường đều cố gắng bám sát quy định của pháp luật để tổ chức hoạt động, phát triển quy mô đào tạo phù hợp với các điều kiện bảo đảm chất lượng. Tuy nhiên, công tác tuyển sinh của nhiều cơ sở GDĐH gặp khó khăn; chất lượng đầu vào của SV còn thấp. Để có được người học, nhiều cơ sở GDĐH tìm mọi cách để lôi kéo SV mà chưa quan tâm đúng mức tới chất lượng đầu vào và nguyện vọng của học sinh; tuyển sinh ở mức điểm sàn tối thiểu, thậm chí còn xin vận dụng những quy định ưu tiên để tuyển sinh dưới điểm sàn tối thiểu. Một bộ phận người học cũng chưa xác định được động cơ học tập đúng đắn, học không phải vì mục đích tích lũy kiến thức, kỹ năng để làm việc, để cống hiến mà chủ yếu là với mục đích có tấm bằng để xin việc làm, để thăng tiến trong công tác,… làm nảy sinh tiêu cực như học hộ, thi hộ, gian lận trong thi cử,….
Bên cạnh đó, cơ cấu ngành nghề và quy mô đào tạo giữa các ngành, nghề, lĩnh vực và trình độ đào tạo phát triển chưa cân đối. Phần đông các cơ sở GDĐH, trong đó hầu hết các cơ sở ngoài công lập vẫn tập trung chủ yếu tuyển sinh các ngành dễ dạy, dễ học, ít phải tốn kém đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị thí nghiệm, thực hành trong quá trình đào tạo (như các ngành Quản trị kinh doanh, Ngân hàng, Tài chính, Ngoại ngữ,...). Hình thức và trình độ đào tạo cũng không cân xứng, trong đó hình thức đào tạo vừa làm vừa học chiếm trên 65%. Vẫn chưa có cơ chế, chính sách tạo bước đột phá, khuyến khích SV vào học các ngành khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, nông - lâm - ngư cũng như thu hút cán bộ khoa học có trình độ cao ở trong và ngoài nước đến làm việc trong các trường ĐH, CĐ.
![]() |
Các cơ sở GDĐH đã chú trọng hơn đến các điều kiện đảm bảo chất lượng |
Chú trọng hơn tới chất lượng
Theo báo cáo giám sát, chỉ tiêu được giao hằng năm về tăng quy mô đào tạo đối với GDĐH từ năm 2010 tới nay chỉ dừng ở mức khoảng 6-6,5%, giảm 5-6% so với năm 2009 trở về trước. Tỉ lệ SV hệ chính quy, tập trung tăng lên trong khi số lượng sinh viên hệ phi chính quy giảm dần.
Thống kê của Bộ GD&ĐT, năm học 2011-2012, cả nước có 2.204.313 SV, tăng 2% so với năm học trước và giảm 3,5 lần so với mức tăng quy mô đào tạo trước khi có Nghị quyết của Quốc hội. Số lượng SV hệ chính quy của năm học 2011-2012 là 1.741.999 người, chiếm 79% tổng quy mô đào tạo, tăng 16% so với năm học 2007-2008. Tỉ lệ SV hệ vừa học vừa làm giảm nhanh từ 487.491 SV, chiếm 36,4% vào năm học 2009-2010 xuống còn 457.795 SV, chiếm 32,4% tổng quy mô đào tạo năm học 2010-2011 và chỉ còn 28,23% (401.192 SV) vào năm học 2011-2012.
Mặc dù vậy, báo cáo giám sát cũng cho rằng, tốc độ tăng quy mô hiện nay vẫn còn cao so với khả năng đáp ứng của các điều kiện bảo đảm chất lượng, dẫn đến chất lượng đào tạo còn hạn chế, đặc biệt là việc đào tạo trình độ cao.
Năm học 2011-2012, quy mô đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ của các cơ sở GDĐH là 96.370 học viên, trong đó nghiên cứu sinh là 6.441 người, chiếm tỉ lệ 7% và học viên cao học là 89.923 người, chiếm tỉ lệ 93%. Tuy nhiên, theo thống kê của Bộ GD&ĐT, trong số 1002 ngành/chuyên ngành đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ được kiểm tra, rà soát trong năm 2012 có tới 161 chuyên ngành thuộc 50 cơ sở GDĐH đào tạo thạc sĩ không đảm bảo điều kiện theo quy định (số lượng GV cơ hữu có trình độ tiến sĩ cùng ngành hoặc đúng chuyên ngành; không tuyển được học viên trong 3 năm liên tiếp,…). Nhiều cơ sở đào tạo đã xác định năng lực đào tạo cao học thạc sĩ vượt quá năng lực về đội ngũ, đặc biệt là ở ngành đào tạo thạc sĩ về quản trị kinh doanh; một số cơ sở GDĐH thực hiện liên kết đào tạo thạc sĩ tại địa phương trái với quy định và không đảm bảo các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo. Công tác tổ chức và quản lý đào tạo tiến sĩ của nhiều cơ sở đào tạo còn thiếu sót như chưa công khai nội dung luận án, thiếu cụ thể trong khẳng định những điểm mới của luận án,…
Cùng với đó, cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học của các cơ sở GDĐH mặc dù đã được cải thiện song nhìn chung còn yếu kém, trang thiết bị còn lạc hậu. Việc đầu tư ngân sách nhà nước theo hướng có trọng tâm, trọng điểm và dài hạn để hình thành một số một số trường ĐH chất lượng cao, phát triển nghiên cứu khoa học cơ bản và ứng dụng còn chưa được triển khai mạnh mẽ.
Đan Thảo