Cấm vẫn… cứ làm
Từ chiến trường Điện Biên Phủ trở về, Trung đoàn trưởng Trần Kim Giá thành thương binh mất đi một cánh tay. Khi lực lượng công an nhân dân vũ trang tỉnh Quảng Bình (nay là Bộ đội biên phòng tỉnh Quảng Bình) được thành lập, Quân khu IV đã “chia gia tài” cho đơn vị ông 1 máy điện thoại hư cùng 1 chiếc xe đạp cọc cạch. Bởi vậy, khi địch xâm nhập biên giới, thám báo biệt kích nhảy dù xuống, Bộ chỉ huy Lực lượng Công an nhân dân vũ trang tỉnh nắm bắt thông tin và báo cáo lên Trung ương nhận được chỉ đạo rất chậm.
Hồi tưởng lại thời chiến tranh mấy mươi năm trước, Trung tá Trần Kim Giá chợt cười: “Khi đó tôi ức cái cấp trên chỉ khoán cho đơn vị chúng tôi 50 đồng tiền điện thoại mỗi năm. Rồi còn kèm theo quy định của Tỉnh ủy và UBND tỉnh Quảng Bình lúc ấy: Ưu tiên số 1 là “cửa” Tỉnh ủy, số 2 là UBND tỉnh, Tỉnh đội số 3, số 4 Ty Công an. Cuối cùng mới đến Công an nhân dân vũ trang chúng tôi. Nếu như các cửa kia không sử dụng thì cửa số 5 chúng tôi mới “cắm” điện thoại chút đỉnh. Mà đôi khi chỉ được nghe điện thôi chứ không nói được. Bực mình quá nên tôi mới nghĩ cách và quyết xây dựng cho bằng được đường dây thông tin liên lạc”.
Vốn là một thợ cơ khí nên Trung tá Trần Kim Giá không chịu bó tay trước khó khăn chung về thông tin liên lạc thời kì ấy. Từ lâu ông phát hiện ra hệ thống cáp treo do Đức xây dựng cho Pháp được bắt đầu từ nhà ga Tân Ấp huyện Tuyên Hoá - Quảng Bình băng qua núi rừng đại ngàn sang tận Lào, dùng để chuyển quân và lương thực. Sau Cách mạng Tháng Tám, hệ thống cáp treo này bị bỏ không. Vậy là anh chàng thương binh ấy ra tận Hà Nội để xin Bộ Giao thông cho tận dụng đường dây cáp treo này vào mục đích Quốc phòng.
Ông cười giọng chậm rãi: “Để Bộ Giao thông đồng ý cho phá tận dụng đường cáp treo ấy, tôi lấy cái “lý” là làm quốc phòng. Kế hoạch được tôi chuẩn bị và đưa ra Bộ Tư lệnh Công an nhân dân vũ trang thông qua với Thượng tướng Huỳnh Thủ, Cục trưởng Tham mưu - để xin kinh phí xây dựng hệ thống đường dây điện thoại trọng yếu của tỉnh Quảng Bình. Đặc biệt phải vượt qua sông Nhật Lệ dài khoảng 3 km và sông Gianh hơn 2 km. Mà nói thiệt, hồi thời kì thực dân Pháp chiếm đóng, họ cũng đành bó tay chứ không làm được hệ thống cột, dây điện vượt sông. Thế là anh Huỳnh Thủ bảo ngay: “Không được đâu! Cấm không được làm!”. Lúc đó tôi vẫn cương quyết giữ ý định của mình: “Đường dây điện thoại tôi phải làm cho bằng được. Vì đó là nhu cầu cấp bách của quân và dân Quảng Bình!”.
Nói là làm, về tới Quảng Bình, ông Giá dẫn anh Tô - phụ trách thông tin và anh lái xe mô tô 3 bánh phóng thẳng lên Đồn công an vũ trang Cha Lo khảo sát thực địa. Dẫu khi ấy đã là chàng “độc thủ đại hiệp” nhưng ông Giá vẫn tự tin huấn luyện cho 2 đồng chí đi cùng biết cách mở 4 con bu lông to ở dưới gốc cột cáp treo. Sau đó ông điều động thêm cán bộ chiến sĩ của đồn Cha Lo ra tiếp tục mở toàn bộ bu lông, tách ra từng thanh sắt dài, còn mới toanh.
Khai phá được “mỏ sắt” rồi, các chiến sĩ mừng lắm. Thế nhưng khó khăn nhất lúc bấy giờ khiến mọi người phải nghĩ suy, là kiếm đâu ra xe để vận chuyển? Tìm nguồn xăng bằng cách nào? Để đưa sắt từ vùng biên giới về biển quả thực là một công việc cực kì khó khăn lúc bấy giờ. Và cuối cùng, vị trung tá biên phòng ngày ấy đã nghĩ ra được một “độc chiêu”: “Lúc này chỉ có xe của Tổng Cục hậu cần thường hay chở hàng hóa đi qua vùng biên giới này. Thế là tôi động viên các anh em chiến sĩ đồn công an Cha Lo nuôi thật nhiều gà, trữ nhiều rượu và nhiều mật ong. Rồi chúng tôi chờ, khi đoàn xe ấy đi qua Lào giao hàng hóa xong, lúc họ quay trở ra liền mời vào đồn Cha Lo nghỉ ngơi, ăn uống tình cảm và đặt vấn đề nhờ chở dùm!”.
Có “mối lái” chở sắt, ông Giá liền huy động lực lượng các đồn công an ở gần đó và quân cơ động điều dưới tỉnh lên khai thác sắt. Những cột điện đang đứng chênh vênh giữa rừng già lần lượt bị hạ xuống và được các khiêng vác ra lề đường chất lên xe Tổng Cục hậu cần.
Gian nan, vất vả nhưng anh em chiến sĩ không nản lòng. Cực nhất là phải dùng búa tạ để đập bể cả khối móng bê tông to đùng chỉ để lấy có 4 con bu lông khóa trụ mà thôi. “Khi xe chở sắt đi vòng ra được Hà Tĩnh thì coi như là mới “qua” được nửa đoạn đường! Công an nhân dân vũ trang Quảng Bình bắt đầu chạy vạy đi kiếm từng lít xăng ở nhiều nơi, tiếp tục tăng bo đoạn đường từ Hà Tĩnh vào Quảng Bình. Thế là cuộc hành trình vận chuyển mới xong xuôi”, Trung tá Giá nhớ lại.
|
Chiến sĩ nào cũng thành kỹ sư
Khi đã có sắt, có bu lông, có dây cáp... trong tay rồi, Công an nhân dân vũ trang Quảng Bình đã hình thành các bộ phận kỹ thuật “tay ngang”. Đơn vị cũng tăng cường cho người khảo sát thực địa tuyến đường thông tin từ đầu tỉnh đến cuối tỉnh, phân công thành đội thợ hàn, đội thợ xây, đội thợ rèn, đội vận tải.... Còn nhiệm vụ lặn xuống biển mà xúc sỏi và lấy cát cho công trình, ông Giá giao cho các đồn công an ven biển.
Trước khi thi công, trung tá Giá đều cho gửi mẫu vật liệu ra Bộ Xây dựng nhờ kiểm nghiệm xem có dùng được không. Bộ trả lời vật liệu tốt, dùng được thì ông mới cho anh em tiến hành làm. Khi nghe chúng tôi nhắc đến kiểu thi công cột điện lớn nhất tỉnh Quảng Bình lúc bấy giờ, ông Trần Kim Giá hồ hởi tóm tắt “công chuyện” rằng:
“Riêng 2 móng cột vượt qua sông Gianh, tôi tự thiết kế trong đầu và tự vẽ bằng tay. Mọi tính toán nhất định phải đúng theo kích cỡ cột cũ của Đức làm vì mình đang tận dụng tối đa mấy con bu lông chân cột họ làm mà. Khi đó vùng sông Gianh địa chất xấu, cát, nhiều bùn nên tôi cho anh em cán bộ chiến sĩ đào móng sâu xuống trên 10 m, để cột không bị lún, không bị nghiêng. Cứ mỗi cột, chúng tôi cho đổ xuống mấy tấn xi măng, cột cao 45 m, tính luôn cả độ chùng để tàu thuyền hải quân và nhân dân qua lại giữa sông cho thoải mái”.
|
Xây dựng xong 2 trụ cột điện vượt sông Gianh, mọi người vui mừng khôn xiết. Tinh thần phấn khởi, anh em chiến sĩ theo lệnh ông Giá tiếp tục kéo đồ nghề vào xây dựng cột vượt “cửa ải” sông Nhật Lệ. Đoạn sông này rộng hơn sông Gianh nên phải đúc 3 cột mới được, trong đó có cột giữa sông, quy trình kỹ thuật cũng giống y như sông Gianh.
Ngày khánh thành cột điện thoại vượt sông Gianh, có 2 đại diện Bộ Xây dựng vào dự và nhận xét: “Anh Giá không phải kỹ sư, mà làm được như thế này thì không thua gì kỹ sư. Người Pháp giỏi về khoa học kỹ thuật sang Việt Nam chiếm đóng đã lâu, nhưng không làm được đường dây thông tin vượt sông. Các “kỹ sư - chiến sĩ” công an nhân dân vũ trang lại làm được một công trình tầm cỡ quốc gia”.
Toàn bộ số cột điện đi trên địa hình đồng ruộng, vùng dân cư, đồi cát... ông Giá sử dụng một thanh sắt chữ V của hệ thống cáp treo. Có được phần cột rồi, ông Giá tiếp tục chạy đi nhiều nơi xin dây dẫn thông tin. “Hễ chỗ mô thấy “ngon” là vô kiếm tí. Cả công an, quốc phòng lẫn dân sự. Lúc đó ai cũng thương tôi nên cho cũng kha khá” - ông Khá cười, không ngại ngùng kể lại chuyện đi xin.
Chúng tôi tò mò hỏi: “Còn xi măng và các vật tư khác thì ông đi xin đâu?”. Trung tá Trần Kim Giá chợt lặng đi hơn một lúc rồi chậm rãi nói: “Tất cả đều trích từ tiền tăng gia sản xuất của cán bộ, chiến sĩ. Lúc đó mới thành lập lực lượng, cả Tỉnh bộ và các đồn biên giới ai cũng khổ cực, nhưng mà ai cũng vẫn thắt lưng buộc bụng để ưu tiên làm tuyến đường dây thông tin. Thật sự mà nói, góp nhặt từng mét dây, đào, đập từng con bu lông, mua từng ký xi măng..., mà làm nên một hệ thống đường dây thông tin, chưa có bộ, ngành nào làm được như vậy!”.
Công lao của cán bộ, chiến sĩ Công an Nhân dân lực lượng vũ trang Quảng Bình là vô bờ bến. Khi đường dây thông tin đi vào hoạt động, công an vũ trang đâu có giữ dùng riêng một mình. Từ anh truyền thanh hợp tác xã, UBND xã, huyện, tỉnh và cả ngành bưu điện tỉnh cũng “đu” vào đường dây dùng chung suốt cả thời kì đánh Mỹ. “Máy bay ra ném bom Vĩnh Linh thì ở cuối tỉnh Quảng Bình đều biết tin”, ông Giá tự hào.