Theo Tổng cục Phòng, Chống Thiên tai (TCPCTT) thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT), từ năm 2018 - 2020, hoạt động khai thác cát tính riêng ở các nhánh sông của Đồng bằng sông Cửu Long đã đạt 17,77 triệu tấn/năm - lớn hơn rất nhiều so với khối lượng 6,18 triệu tấn cát bồi đắp hằng năm. Chính những hoạt động thiếu bền vững này là nguyên nhân làm sạt lở các bờ sông Cửu Long và vùng duyên hải, khiến hơn nửa triệu người đứng trước nguy cơ mất nhà.
Khai thác cát cũng làm suy giảm sự đa dạng, phong phú của các loài cá và thay đổi thảm thực vật ven sông. Biến đổi khí hậu càng làm trầm trọng hơn những ảnh hưởng của khai thác cát không bền vững ở đây, làm gia tăng rủi ro hạn hán và mưa lũ, kéo theo mực nước biển dâng cao ở mức chưa từng có trước đây.
Việc khai thác cát trong 20 năm qua với số lượng ngày càng tăng dẫn đến hậu quả nghiêm trọng là làm xói mòn các nhánh sông, sạt lở bờ gia tăng (khoảng 500 ha/năm) đã làm vùng đồng bằng này thay đổi hình dạng.
Việc khai thác cát quá mức làm mất cân bằng bùn cát, hạ thấp đáy và thay đổi dòng chảy... Khối lượng phù sa về ĐBSCL hiện tại chỉ còn 25 - 35% so với trước đây (những năm 1990) và 50 - 60% so với những năm gần đây. Dự báo trong tương lai, lượng phù sa đổ về ĐBSCL sẽ chỉ còn dưới 10%.
ThS Lương Văn Hùng, Vụ Vật liệu Xây dựng, Bộ Xây dựng cho biết, theo báo cáo số liệu từ các địa phương năm 2016, tổng trữ lượng cát, sỏi đủ tiêu chuẩn làm cát xây dựng được các địa phương phê duyệt theo thẩm quyền khoảng 692 triệu m3. Công suất cấp phép khai thác cát xây dựng khoảng 62 triệu m3/năm.
Theo tính toán của Viện Vật liệu xây dựng thì nhu cầu sử dụng cát xây dựng cả nước hàng năm khoảng 130 triệu m3. Như vậy, nguồn cung hợp pháp chỉ đáp ứng được 40 - 50% nhu cầu cát xây dựng, do đó đã xảy ra tình trạng thiếu cát xây dựng tại một số thời điểm và một số nơi trong thời gian vừa qua.
Cát tự nhiên là vật liệu cần thiết trong xây dựng và được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Tuy nhiên, lượng cát tự nhiên là có hạn, việc khai thác trái phép đã gây ra nhiều vấn đề cho môi trường và đời sống của người dân. Để khắc phục tình trạng này, việc sử dụng các vật liệu thay thế cát tự nhiên là giải pháp đem lại nhiều lợi ích.
Theo ThS Lương Văn Hùng, hiện nay nhiều doanh nghiệp tại hầu hết các tỉnh, thành trong cả nước có nguồn đá tự nhiên đã đầu tư các dây chuyền sản xuất cát nghiền phục vụ cho nhu cầu tại chỗ và cung cấp cho các địa phương khác không có nguồn đá để sản xuất cát nghiền, đặc biệt là cho hai thị trường tiêu thụ lớn là Hà Nội và TPHCM.
Các dây chuyền sản xuất cát nghiền hiện nay được đầu tư công nghệ thiết bị sản xuất thuộc loại tiên tiến, mức độ cơ giới hoá, tự động hoá cao, quy mô công suất khoảng 100.000 – 500.000 m3/năm.
Năng lực sản xuất cát nghiền hiện nay ở nước ta cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu sử dụng, khối lượng và mức độ sử dụng tuỳ thuộc vào điều kiện thực tế của từng địa phương. Cát nghiền được sử dụng để sản xuất vữa bê tông, vữa xây dựng, gạch bê tông, gạch lát vỉa hè, sân bãi…
ThS Trần Văn Huynh, Viện Vật liệu Xây dựng cho biết, thực tế có nhiều vật liệu có thể thay thế cát tự nhiên trong xây dựng. Xỉ đồng có thể được sử dụng để thay thế một phần của cát tự nhiên dưới dạng cốt liệu mịn trong bê tông làm vỉa hè mà không làm giảm độ kết dính, cường độ nén và uốn của bê tông.
Ngoài xỉ đồng, xỉ lò cao cũng được sử dụng làm vật liệu thay thế cho cát tự nhiên trong xây dựng. Khi thay thế cát bằng xỉ lò cao, cường độ nén của xi măng tăng.
Để cát nghiền dần thay thế cát tự nhiên, cần đến nhiều giải pháp đồng bộ. Thời gian tới cần phải tiếp tục khắc phục một số nguyên nhân để tăng cường sản xuất và sử dụng các loại vật liệu xây dựng thay thế cát, sỏi tự nhiên.
Kiểm soát chặt việc khai thác cát tự nhiên, thay đổi thói quen sử dụng cát tự nhiên trong xây dựng đã hình thành từ lâu, mặc dù cát nghiền thay thế (đá nghiền) để được cả xã hội quan tâm ưu tiên sử dụng. Tiêu chuẩn, định mức sử dụng cát nghiền cần được khẩn trương ban hành làm cơ sở pháp lý để phát triển sản xuất và sử dụng cát nghiền…