Nói như nhà thơ Trần Anh Thái, thơ Bình Nguyên Trang “tinh khôi mà da diết nỗi người, nỗi đời”. Có thể nói, thơ chị không lên gân, ồn ào, không quá phá cách, mà là một dòng cảm xúc lặng nhưng thấm thía chảy trong lòng người đọc.
Phố huyện
Bình Nguyên Trang
Em có về phố huyện mùa Đông
Bàng khoác áo của mùa Thu sót lại
Gió lùa tóc mây con đường xa ngái
Cha còng lưng tan ca đêm trở về
Đó là những ngày gió hú lê thê
Phố huyện nghèo vùi trong mưa ướt át
Cây bồ đề suốt mùa Đông rải nhạc
Những giọt buồn rơi theo lá vàng rơi
Mẹ thắt lòng suốt mùa Đông em ơi
Chiếc đòn gánh oằn vai thành dấu hỏi
Đường trơn tuột rét luồn qua manh áo
Nôn nao buồn nghe tiếng vạc kêu sương
Và cô nhỏ bước chân cuối nẻo đường
Rao khản giọng bánh mì trên phố vắng
Phố huyện mình đêm mùa Đông rất đắng
Lam lũ những cuộc đời hằn vết bánh xe
Phố huyện mình không có một hàng me
Nỗi buồn thì thẳm sâu mà rất khẽ
Ta như họa sĩ tồi yêu quê hương ngồi vẽ
Dòng âm thanh lặng lẽ chảy qua mùa
Hà Nội bây giờ rét đã ngọt chưa
Phố huyện buồn tênh đợi em về may áo.
Bài thơ “Phố huyện” là minh chứng tiêu biểu cho giọng điệu ý vị ấy. Qua khung cảnh một phố huyện nghèo giữa mùa Đông rét mướt, Bình Nguyên Trang gửi gắm tình cảm thương yêu với những con người lam lũ và nỗi thương nhớ sâu nặng với quê hương.
Dưới ngòi bút của chị, cái nghèo cái khổ không bi lụy, nỗi u hoài xa vắng càng làm tăng cái sự cần mẫn, tình người và tình quê. Hay nói cách khác, phố huyện nghèo nhưng vẫn ấm và giàu tình yêu thương giữa mùa Đông buốt giá.
Nghèo mà cần mẫn
Nhan đề bài thơ “Phố huyện” không chỉ mở ra một không gian cụ thể, mà còn giúp người đọc hình dung phần nào khung cảnh, hoàn cảnh nơi ấy. “Phố” thường gắn với sự sầm uất, nhộn nhịp nơi đô thị, còn “huyện” lại là đơn vị hành chính tương đối nhỏ; như thế “Phố huyện” chưa phải là nơi đô hội, giàu có, mà là sự giao thoa, có một ít sự phát triển nhưng vẫn còn mang dáng dấp của làng quê. Bức tranh phố huyện mở ra bằng hình ảnh rất thực của mùa Đông:
“Bàng khoác áo của mùa Thu sót lại
Gió lùa tóc mây con đường xa ngái”.
Và
“Đó là những ngày gió hú lê thê
Phố huyện nghèo vùi trong mưa ướt át
Cây bồ đề suốt mùa Đông rải nhạc
Những giọt buồn rơi theo lá vàng rơi”.
Một vài hình ảnh đủ thấy không khí mùa Đông bắt đầu len lỏi qua cả không gian phố huyện, từ hàng cây, ngọn gió, giọt mưa, con đường đến những chiếc lá. Dù cây bàng còn cố níu giữ, lưu luyến “mùa Thu sót lại” qua vài chiếc lá đổi màu thì ta vẫn cảm nhận được cái run rẩy đã bắt đầu. Động từ “lùa”, “hú”, “vùi”, “rải”, “rơi”; tính từ “xa ngái”, “lê thê”, “ướt át”, “buồn” kết hợp với từ chỉ không gian “con đường”, “cây bồ đề” và thời gian “đêm”, “những ngày” diễn tả cái lạnh vắng, buồn hiu của không khí, tiết trời.
Có âm thanh, nhưng đó chỉ là tiếng “gió hú” những “giọt buồn” của mưa và “vàng rơi” của những chiếc lá từ cây bồ đề vốn im lìm. Như thế, mùa Đông vốn đã lạnh, thêm cái lặng lẽ lại làm cho mọi thứ dường như chìm xuống, trầm buồn. Trong bức tranh ấy, ta bắt gặp những con người lao động nghèo một đời lam lũ:
“Cha còng lưng tan ca đêm trở về”.
Và:
“Mẹ thắt lòng suốt mùa Đông em ơi
Chiếc đòn gánh oằn vai thành dấu hỏi
Đường trơn tuột rét luồn qua manh áo
Nôn nao buồn nghe tiếng vạc
kêu sương
Và cô nhỏ bước chân cuối nẻo đường
Rao khản giọng bánh mì trên
phố vắng”.
Giữa cái gió, cái lạnh, cái vắng vẻ của đêm mùa Đông, cái dáng “cha còng lưng tan ca đêm” thật ám ảnh. Tan ca đêm đã là một sự vất vả, đằng này lại giữa đêm đông gió lùa, nên cái “lưng” ấy dường như “còng” hơn chăng? Phải chăng là do cái đói, cái lạnh, cái chịu đựng cả một ngày làm việc dài đè nặng? Cũng như cái “thắt lòng” của mẹ đâu chỉ một, hai lần, mà là cả “suốt mùa Đông” lạnh buốt phải vất vả mưu sinh.
Ở đây, “chiếc đòn gánh oằn vai thành dấu hỏi” như câu trả lời rõ ràng cho những tần tảo của mẹ. “Chiếc đòn gánh” là hình ảnh quen thuộc trong thơ ca Việt Nam, tượng trưng cho gánh nặng, một đời vất vả của người mẹ. Nhưng có lẽ ít ai nhìn nó thành dấu hỏi. Ở đây, Bình Nguyên Trang quan sát tinh tế khi nhìn vào dáng hình của nó, gánh càng đầy, càng nặng thì chiếc đòn gánh càng oằn xuống, đó là sự thật.
Hay nói cách khác, dấu hỏi ấy chính là ẩn dụ cho gánh nặng lo toan cho gia đình, cho câu hỏi về cuộc sống, về tương lai của con cái. Hơn nữa, lại thêm “đường trơn tuột” và “rét luồn qua manh áo”. Như thế, gánh nặng, đường trơn, áo mỏng, gió rét bao trùm lấy hình ảnh mẹ vốn đã “thắt lòng”, vốn đã vất vả lại càng tảo tần hơn bao giờ hết. Mặt khác, bức tranh phố nghèo được hoàn thiện với hình ảnh cô nhỏ bán bánh mì.
Thực ra, giữa dòng đời lam lũ, khi bắt gặp những hình ảnh con người trưởng thành mưu sinh vất vả đã là một sự thương cảm, đối với những đứa trẻ lại càng là nỗi xót xa. Ở đây, ta bắt gặp một hình ảnh rất “phố”, đó là có tiếng rao của người bán bánh mì. Nhưng lại là “phố huyện”, “phố vắng” với những con người đang bận bịu với mưu sinh, đang “còng lưng”, “thắt lòng”, thì “cô nhỏ” “rao khản giọng” là điều dễ hiểu.
Cái lẽ thường tình, thường lệ và dễ hiểu ấy đối với một đứa nhỏ “bước chân cuối nẻo đường” mưu sinh trong đêm thật là nỗi ám ảnh và khắc khoải. Giọng rao khản trong đêm lạnh trở thành một nốt nhạc buồn trong bản giao hưởng của phố huyện mùa Đông, một âm thanh của đời thường mà thấm vào lòng người đọc như tiếng thở dài.
Nhưng bài thơ không dừng lại ở cái nghèo, cái khổ trong đêm đông lạnh. Ý thơ của tác giả cho ta thấy ở đây là nghèo mà cần mẫn, buồn nhưng không bi lụy, lạnh của mùa Đông nhưng ấm của tình người. Hay nói cách khác, Bình Nguyên Trang viết về cái nghèo mà vẫn giữ được chất thanh tao và vẻ đẹp, sự đôn hậu của tình yêu thương.
Khúc ngân về tình người
Đằng sau bức tranh phố huyện nghèo trong đêm đông gió lạnh là khúc ngân về tình người, tình quê và nỗi nhớ. Hay có thể nói, chính tình yêu thương đã sưởi ấm không gian lạnh giá của bài thơ. Ngay cả khi khắc họa đậm nét cái vất vả, khổ cực thì ta vẫn cảm nhận được nhà thơ không “tố khổ” mà chỉ “kể khổ” để thêm yêu, thêm quý.
Quả thật, trong cái “còng lưng” của cha, cái “thắt lòng” của mẹ hay “tiếng rao khản giọng” của đứa nhỏ chắc hẳn có cái khổ, cái nghèo; nhưng cũng không thiếu tấm lòng đáng trân trọng. Đó là sự hi sinh, dành tình thương hơn hết thảy cho gia đình. Để rồi, dù đêm muộn, người cha vẫn có nơi “trở về” sau những giờ tan ca vất vả; người mẹ cần mẫn trong kiếp “vạc kêu sương” vì có lẽ ước mơ của các con thơ đang nằm nơi đôi quang gánh nặng oằn kia.
Hay đứa nhỏ dù “cuối nẻo đường” vẫn chăm chỉ những bước chân, vẫn mưu sinh chân chính bằng sức lao động của mình. Hay nói cách khác, “mùa Đông rất đắng” bởi lạnh và nghèo là có thật, “lam lũ những cuộc đời” là điều mà hằng đêm vẫn thấy nơi phố huyện đây, đến nỗi “hằn vết bánh xe” mưu sinh vất vả như chính vết hằn của đời người vậy. Nhưng Bình Nguyên Trang không dừng lại ở nỗi xót xa, thương cảm.
Chị viết về những cảnh đời nghèo bằng tình yêu và lòng bao dung, để từ cái khổ, ta thấy được ý chí mạnh mẽ vươn lên và phẩm chất cần cù, chịu thương chịu khó của họ. Diễn tả điều này, càng về cuối bài thơ, giọng thơ càng trở nên ý vị, sâu lắng như lời tự sự của người con xa quê hướng lòng về quê mẹ:
“Phố huyện mình không có một
hàng me
Nỗi buồn thì thẳm sâu mà rất khẽ”.
Thật sự, nơi quê nhà thân thương ấy, thiếu đi “một hàng me” xanh tươi, cũng như không có ai không khí ồn áo, náo nhiệt mà ta thường thấy ở các phố phường. Tuy vậy, “nỗi buồn” ở đây “rất khẽ”. Yêu thương biết mấy cái khẽ ấy, cái chân thành không phô trương, lên gân ấy!
Hay nói cách khác, nỗi buồn ở đây không đến từ những khát vọng bị dập tắt, cũng như cái nghèo, cái khổ ở đây còn tồn tại nhưng không để rên rỉ, cuồng quay với đời, mà nó “thẳm sâu” để có động lực vươn lên, chăm chỉ lao động như hơi thở thường ngày. Vì thế, tác giả cũng nhìn cái nghèo, cái tần tảo, vất vả của những người lao động nơi quê mình để trân trọng, cảm thông và yêu mến. Cảm xúc ấy được lắng xuống ở hai câu thơ cuối:
“Hà Nội bây giờ rét đã ngọt chưa
Phố huyện buồn tênh đợi em về
may áo”.
Hai không gian, Hà Nội và phố huyện, được đặt trong hai khung cảnh không giống nhau. Một bên là “rét đã ngọt” hay chính là cái lạnh nơi đô thị đã trở nên ấm áp, quen thuộc; một bên là “phố huyện buồn tênh” nơi cái rét vẫn nguyên sơ, nghèo khó, và lẻ loi.
Hay nói cách khác, cũng là mùa Đông nhưng ở nơi phồn hoa đô hội thì cái lạnh của đất trời dường như trở nên đáng yêu, ngọt ngào; ngược lại, nơi những con người đang ngày đêm dầm mưa gió để mưu sinh thì có lẽ mùa Đông thêm khắc nghiệt, những tấm thân thêm gầy, những bước chân thêm lạnh cóng.
Giữa hai không gian ấy, “em” mang theo nỗi day dứt của người con xa xứ, hướng về quê mẹ với tình thương và nỗi nhớ khôn nguôi. Thật vậy, dù xa, dù lạnh, phố huyện vẫn luôn đợi tấm lòng những người con thân yêu trở về. Cái đáng quý là, dù có thể xa mặt, nhưng lòng vẫn hướng về quê nghèo với tình thương mến thương.
Tác giả tự nhận mình là “họa sĩ tồi” nhưng “yêu quê hương”, yêu những con người và khung cảnh nơi phố huyện nghèo. Hình ảnh những con người chân chất, vất vả, dù nghèo vẫn luôn chăm lo vào công việc thường ngày đã in đậm trong nét “vẽ” hay trong trái tim của người đi xa.
Hành động “may áo” như biểu tượng cho sự chăm sóc, quan tâm, cho tấm lòng muốn sưởi ấm, cho tình người hướng về nguồn cội. Câu thơ khép lại vừa như một lời nhắc nhở lòng mình, vừa như lời mời gọi nhẹ nhàng mà sâu xa, vương lại bao cảm xúc trong lòng những người đi xa. Quả thật, mùa Đông lạnh mà ấm áp biết bao tình người, tình quê.
Bài thơ được viết theo thể tự do với giọng điệu trữ tình, nhịp điệu chậm rãi cùng những hình ảnh gần gũi, đời thường nhưng rất gợi cảm như “bàng khoác áo”, “hằn vết bánh xe”, “mùa Đông rải nhạc”.
Ngôn ngữ thơ trau chuốt, với những hình ảnh nhẹ nhàng nhưng giàu cảm xúc. Dòng chảy cảm xúc liền mạch, không lên gân gượng ép, khiến người đọc cảm thấy như đang đi cùng tác giả qua từng con phố, từng hàng cây, cảm nhận từng đợt gió, bắt gặp từng mảnh đời, lắng nghe theo từng tiếng rao đêm, đếm từng bước chân cuối con đường.
Nhan đề bài thơ “Phố huyện” cho thấy không có một địa danh cụ thể, mà như là biểu tượng của quê hương trong tâm tưởng mỗi con người Việt Nam, nơi dù có nghèo, vẫn thấm đẫm tình người, tình quê.
“Phố huyện” là một bài thơ có tứ thơ quen thuộc, hình ảnh gần gũi nhưng mang sức gợi lớn. Mỗi vần thơ như nốt nhạc trầm nhưng âm điệu du dương mãi, ngân lên nỗi nhớ thương sâu lắng. Qua hình ảnh một phố huyện nghèo, Bình Nguyên Trang đã thể hiện cái nhìn nhân hậu và lòng yêu thương sâu sắc với con người và quê hương.
Cái nghèo, cái khổ, cái vất vả ở đây không bi lụy mà khiến ta biết cố gắng, yêu thương nhiều hơn. Như thế, với bài thơ “Phố huyện”, nhà thơ Bình Nguyên Trang đã gửi tới chúng ta thông điệp rằng, tình người, tình quê sẽ luôn sưởi ấm tâm hồn mỗi người dù trong bất cứ hoàn cảnh nào.