Hàng triệu thầy cô đã nỗ lực vượt qua rào cản về tuổi tác, thói quen, năng lực, điều kiện cơ sở vật chất để làm mới mình, đáp ứng yêu cầu cao hơn của công cuộc đổi mới giáo dục và chuyển đổi số.
Đó còn là hình ảnh thầy cô không quản khó khăn, vất vả và những nguy cơ có thể gặp phải, sẵn sàng tình nguyện vào cách ly tập trung cùng học trò. Những giáo viên vùng cao vì chăm lo cho học sinh vùng khó mà chấp nhận điều kiện sống, làm việc dưới mức tối thiểu...
Mỗi thầy cô là một câu chuyện nhưng cống hiến thầm lặng ấy đều bắt nguồn từ tình yêu nghề, mến trẻ vô điều kiện sẽ ươm mầm cho những thánh thiện và tươi xanh trong tương lai.
Gửi tương lai mùa quả ngọt
Công Sơn là xã nghèo của huyện Ứng Hòa, Hà Nội nên nhiều học sinh có hoàn cảnh éo le. Trước nguy cơ trò phải bỏ học giữa chừng, thầy Ngô Mạnh Cường, cựu GV Trường THCS Sơn Công luôn tìm cách hỗ trợ, cưu mang những học sinh nghèo khó. Năm này qua năm khác, những học sinh được hỗ trợ nhiều tới mức thầy không nhớ hết.
Đầu tiên chỉ là quyển sách, cuốn vở, cái bút… cùng những lời động viên, chia sẻ chân thành khiến các em cảm nhận được và phần nào vơi bớt đi sự mặc cảm trong tư tưởng để tiếp tục cố gắng học tập. Sau này, khi đồng lương được cải thiện, thầy Cường hỗ trợ các em bằng nhiều thứ hơn để các em đỡ vất vả hơn trong cuộc sống.
Đến nay, dù đã nghỉ hưu, nhưng “ông giáo làng” vẫn thường xuyên tham gia hoạt động từ thiện vì cộng đồng để giúp những mảnh đời còn thiếu may mắn có cơ hội được học tập, vượt khó vươn lên. Có những em không may bị mồ côi cả cha lẫn mẹ nên rất thiệt thòi. Nhiều học trò được thầy Ngô Mạnh Cường cưu mang, giúp đỡ cảm thấy vô cùng kính trọng, biết ơn và coi ông như người cha thứ hai của mình.
TS Nguyễn Tường Huy, Trưởng bộ môn Địa lý kinh tế xã hội, Khoa Địa lý, ĐH Sư phạm Hà Nội là một trong những học trò được thầy Cường cưu mang. “Tôi sinh ra trong gia đình có hoàn cảnh khó khăn về mặt kinh tế và tình cảm. Từ nhỏ, tôi đã nhút nhát, tự ti, sống khép kín trước bạn bè và mọi người xung quanh. Khi đó, tôi chỉ biết lấy việc học làm niềm vui.
Năm lớp 7, thầy Ngô Mạnh Cường được phân công làm giáo viên chủ nhiệm và giảng dạy môn Toán của lớp tôi. Thầy chủ động gần gũi, thăm hỏi gia đình tôi để thấu hiểu hoàn cảnh gia đình và bắt đầu hành trình truyền cảm hứng, giúp đỡ tôi suốt 40 năm vừa qua”, TS Tường Huy xúc động bày tỏ.
Dù thời gian đã chảy trôi, TS Tường Huy vẫn nhớ như in hộp mứt Tết được thầy Mạnh Cường tặng khi còn khó khăn. “Mỗi khi Tết đến, nhìn lên bàn thờ gia tiên thấy hộp mứt Tết, tôi không khỏi nhớ về người thầy giáo cũ của mình. Đó là cảm giác bồi hồi, xúc động, đó là động lực giúp tôi tiếp tục phấn đấu trong hành trình phía trước”, TS Huy tâm sự.
25 năm vừa làm nghiên cứu khoa học vừa đứng trên bục giảng là ngần ấy thời gian, TS Nguyễn Tường Huy trao truyền năng lượng tích cực tới các thế hệ học trò và những người có hoàn cảnh khó khăn.
“Bên cạnh sự nỗ lực không ngừng của bản thân, những gì tôi có hôm nay còn được vun đắp bằng sự tin tưởng và khích lệ từ thầy cô, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp và những người tôi may mắn được gặp trong suốt những năm tháng đã qua. Tôi thấy cuộc đời này tươi đẹp vô cùng”, TS Nguyễn Tường Huy bày tỏ.
Chia sẻ cảm xúc sau khi nghe các thế hệ học trò tâm sự về mình, thầy Cường bày tỏ: “Điều làm được lớn nhất của tôi là động viên về mặt tinh thần, giúp các em vượt qua những mặc cảm của mình để tự vươn lên trong cuộc sống. Đối với tôi, niềm vui lớn nhất khi có những học sinh vững bước đi lên để có tương lai tươi sáng hơn”.
Hy sinh thầm lặng
Thầy Hò Văn Lợi là giáo viên cắm bản thuộc Trường PTDT Bán trú Tiểu học Ngam La (xã Ngam La, huyện Yên Minh, Hà Giang).
Pờ Chừ Lủng nơi thầy Lợi công tác là thôn sâu, xa nhất của xã Ngam La với 100% là đồng bào dân tộc Mông. Thôn nằm chơ vơ giữa đại ngàn với những ngọn núi vắng dấu chân người qua lại. Pờ Chừ Lủng được chia làm 3 tổ dân cư riêng rẽ gồm các tổ dân cư 1, 2 và 3, mỗi tổ cách nhau vài giờ đi bộ. Trong đó tổ 1 được coi là “trung tâm” vì có đường xe máy, còn tổ 2 và 3 thì phải đi bộ hoàn toàn.
Khi mới nhận công tác tại Pờ Chừ Lủng, cuộc sống của giáo viên vô cùng khó khăn do đường lên điểm trường là dốc đá, phải đi bộ hoàn toàn. Thời điểm đó, điểm trường không có điện, thiếu nước sinh hoạt và thời tiết rất khắc nhiệt vào mùa đông. Nhưng những khó khăn ấy không làm thầy giáo trẻ chùn bước. Gần 10 năm gắn bó với nghề, với học sinh, thầy Lợi vẫn giữ cho mình một đam mê với nghề giáo.
Thầy Lợi cho biết: “Tôi luôn tự nhủ bản thân phải bằng tình yêu thương và trách nhiệm trong công tác. Mong muốn đóng góp một phần sức nhỏ bé của mình mang cái chữ đến học sinh, giúp các em có thêm hy vọng về tương lai tươi sáng ở phía trước. Còn tôi, nếu được chọn lại dù biết trước được khó khăn vẫn chọn làm thầy giáo”.
Sau thời gian công tác ở vùng khó, thầy Hò Văn Lợi được điều chuyển về điểm trường chính để dạy học. Thế nhưng, thầy đã có quyết định “ngược đời”, đó là: Tiếp tục tình nguyện “cắm bản” và mở lớp xóa mù chữ cho bà con dân bản.
“Tôi muốn đem kiến thức, con chữ đến với bà con dân bản, để phục vụ cho cuộc sống thường nhật như: Đi chợ, làm các thủ tục hành chính… Khi bà con biết chữ sẽ ký được tên, không phải điểm chỉ” – thầy Lợi chia sẻ.
Vượt qua nỗi sợ làm chỗ dựa cho trò
Ngày 6/9, buổi học đầu tiên của năm học mới tại Trường Tiểu học Tri Lễ 1, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An diễn ra bình thường. Các biện pháp phòng chống dịch Covid-19 vẫn được triển khai, duy trì đầy đủ.
Nhưng ngày hôm sau, 7/9, bất ngờ có 2 học sinh của lớp 2A1 và 5A2 được chính quyền địa phương xác nhận dương tính với Covid-19, thầy Nguyễn Minh Hòa - Hiệu trưởng nhà trường đón nhận thông tin trên một cách hết sức bất ngờ. Cuộc họp khẩn ngay trong ngày qua điện thoại đã được tổ chức giữa Ban giám hiệu và các giáo viên địa phương đã xác định, ngoài 2 học sinh F0 phải đi điều trị ở Vinh, 52 học sinh của 2 lớp có tiếp xúc gần là đối tượng F1, buộc phải cách ly tập trung.
Vấn đề đặt ra học sinh tiểu học còn quá nhỏ, chưa thể tự chăm sóc bản thân. Gần như ngay lập tức, 2 cô giáo đã tình nguyện xung phong vào khu cách ly cùng các em. Đó là cô Hà Thị Kim và cô Hà Thị Dung. Một cô đã có gia đình với hơn 20 năm kinh nghiệm, một cô giáo trẻ vẫn còn độc thân, dù cho ít nhiều lo sợ, song đã không ngần ngại xung phong tham gia cách ly cùng học sinh mà chẳng biết, điều gì chờ mình trong những ngày sắp tới.
Cô Kim nhớ mãi hình ảnh khi lên điểm danh phòng học cho học sinh lớp 2 ở tầng 2. Các em nhìn thấy cô mừng lắm, chạy ùa ra đón. Cô trò muốn ôm lấy nhau nhưng không được, phải giữ khoảng cách. Cô cũng chỉ biết đứng cách xa 1m, dặn dò học sinh. “Điểm danh xong tôi không cầm được nước mắt, và thấy mình đã quyết định đúng khi vào cùng các em”, cô Kim nói.
Thời gian ở trong khu cách ly cũng có nhiều tình huống phát sinh. Có em khóc vì nhớ bố mẹ, có em đau bụng, cô phải thức xoa dầu, cho uống thuốc, động viên cả đêm. Cô còn dạy các em biết tự lập như bung màn, gấp chăn màn, quần áo, giữ vệ sinh. Đồng thời tranh thủ thời gian dạy phụ đạo cho các em vì trẻ dân tộc thiểu số sau thời gian nghỉ dài dễ quên mất tiếng Việt.
Là một trong 2 giáo viên của Trường Tiểu học Tri Lễ xung phong vào khu cách ly cùng học trò, khi dịch bệnh Covid-19 xuất hiện, cô Hà Thị Dung kể: “Trước đó, tôi vẫn nghĩ Covid vẫn đang còn xa lắm, ở đâu đó trong miền Nam. Nhưng không ngờ, nó đã đến tận xã biên giới toàn núi rừng, trong đó có cả học sinh của trường”.
Quyết định xung phong vào khu cách ly vì không thể để học trò một mình, 3 đêm đầu tiên, cô Dung cũng thức trắng. Lo lắng, hồi hộp chờ kết quả xét nghiệm, vì thương học trò, vì tiếng khóc của các em khi rời xa gia đình vào khu cách ly mà chưa nhận thức đầy đủ nguy cơ dịch bệnh. Cuối cùng cũng trôi qua 14 ngày. Kết quả xét nghiệm của cả cô và trò đều âm tính.
Nhớ lại những ngày đã trải qua trong khu cách ly, cô Dung chia sẻ đó là trải nghiệm đặc biệt nhất trong suốt gần 20 năm dạy học ở xã biên giới này. “Là giáo viên bản địa, cô không chỉ dạy học sinh ở trường, mà còn gần gũi, biết rõ hoàn cảnh từng em. Tình thương đối với học trò còn lớn hơn cả nỗi sợ hãi, lo lắng về nguy cơ nhiễm dịch bệnh, nên dù thế nào đi nữa, tôi vẫn ở bên các em”, cô Dung trải lòng.