Phân môn Tập đọc ở tiểu học nói chung và ở lớp 4 nói riêng đặt ra một nhiệm vụ quan trọng: đọc rành mạch, lưu loát văn bản hoặc đoạn văn bản dài (khoảng 100 - 120 tiếng/ phút), bước đầu đọc có biểu cảm bài văn, bài thơ ngắn, hiểu nội dung, ý nghĩa bài đọc. Song thực tế, chất lượng đọc của học sinh chưa đáp ứng được những yêu cầu trên, nhất là yêu cầu đọc diễn cảm.
Rèn kỹ năng đọc đúng
Những tiếng, những từ có phụ âm đầu hay nhầm lẫn: l-n, s-x, ch-tr, d-r-gi,... âm hay nhầm lẫn: thanh ngã, thanh sắc thường là những từ khó đối với học sinh. Cho nên, trong bước rèn đọc đúng cho học sinh, giáo viên cho các em đọc thầm toàn bài rồi đọc cá nhân.
Trong thực tế, nhiều khi giáo viên quá phụ thuộc vào sách hướng dẫn mà ép học sinh phải chỉ ra những từ khó - giống như trong sách nêu ra là không nên bởi những từ đó với học sinh có thể chưa phải là khó. Song từ, tiếng khó đọc mà tự các em phát hiện ra có thể là rất nhiều.
Do vậy, giáo viên cần kết hợp với việc quan sát theo dõi của mình trong tất cả các giờ học để thấy học sinh lớp mình hay nhầm lẫn nhất ở những cặp phụ âm nào, vần nào để tập trung rèn cho các em những tiếng khó, từ khó ở các loại đó.
Việc luyện đọc từ khó cần phải được đặt trong văn cảnh, trong môi trường ngôn ngữ thì học sinh đọc những từ đó sẽ đúng hơn. Bởi nhiều khi đọc riêng từ, học sinh có thể đọc đúng nhưng khi đặt từ đó vào trong câu văn, đoạn văn thì chưa chắc học sinh đã đọc đúng.
Chính vì thế, sau khi rèn phát âm luyện đọc từ khó có chứa âm khó, giáo viên cần yêu cầu học sinh tìm những câu văn, câu thơ thậm chí đoạn văn, đoạn thơ có chứa từ khó đó cho học sinh đọc vì mục đích của rèn đọc đúng là rèn phát âm đúng để đọc đúng văn bản.
Rèn cho học thói quen đọc đúng những từ có các phụ âm mà học sinh hay nhầm lẫn là một việc làm không đơn giản. Bản thân một mình phân môn Tập đọc cũng khó có thể giải quyết được. Do vậy, trong tất cả các giờ học và trong bất kỳ hoàn cảnh giao tiếp nào cũng cần giúp các em sửa ngay.
Rèn kỹ năng đọc ngắt, nghỉ hơi
Khi đọc, thông thường học sinh chỉ biết ngắt hơi khi gặp dấu phảy, dấu chấm phảy và nghỉ hơi khi gặp dấu chấm. Nhưng khi gặp những câu văn dài không có dấu câu, học sinh thường rất lúng túng, không biết ngắt nghỉ hơi như thế nào. Vì vậy trong trường hợp này tôi đã hướng dẫn học sinh ngắt nghỉ theo cụm từ.
Ví dụ: Trong vườn, lắc lư những chùm quả xoan vàng lịm không trông thấy cuống, như những chuỗi tràng hạt bồ đề treo lơ lửng.
Nếu tính về mặt âm tiết thì câu văn trên có 24 âm tiết, 19 từ, 7 cụm từ. Khi học sinh tập đọc không để các em đọc rời rạc từng âm tiết như kiểu đọc nhát gừng. Nếu để học sinh đọc theo từng từ thì vẫn chưa diễn đạt được ý của câu văn nên tôi phải hướng dẫn học sinh đọc theo cụm từ.
Trong vườn,/ lắc lư /những chùm quả xoan vàng lịm / không trông thấy cuống,/ như những chuỗi tràng hạt bồ đề / treo lơ lửng //.
Cách hướng dẫn học sinh đọc theo cụm từ như sau: Viết câu văn đó ra bảng phụ (đã chuẩn bị từ trước). Hướng dẫn học sinh theo cụm chủ ngữ, cụm vị ngữ hoặc cụm động từ, cụm tính từ, cụm danh từ. Căn cứ vào đó học sinh có thể biết cách ngắt nghỉ những câu văn, câu thơ dài khác.
Với những câu văn khó, giáo viên đọc mẫu theo cách nghỉ như trên sao cho thật chuẩn. Sau đó cho học sinh phát hiện những chỗ ngắt nghỉ của cô, nếu đúng giáo viên sẽ dùng phấn màu gạch chéo sau những từ cần ngắt. Nếu học sinh chưa phát hiện ra giáo viên có thể đọc mẫu lần thứ 2.
Đồng thời, giáo viên cần luôn củng cố kỹ năng đọc khi gặp dấu chấm (phải nghỉ hơi), gặp dấu phẩy phải ngắt hơi. Khi đã nhận ra cách ngắt nghỉ sau cụm từ, sau dấu phẩy, sau dấu chấm, gọi một số học sinh khá đọc, sau đó mới gọi những em hay đọc ê a ngắc ngứ lên đọc. Có thể là một lần, cũng có thể là hai lần và nhiều lần trong một thời gian. Đồng thời, phải sửa một cách triệt để hết cụm từ này rồi mới chuyển sang cụm từ khác và cũng theo trình tự đúng như vậy. Cuối cùng cho học sinh đọc lại cả đoạn văn đó.
Khi đọc những câu văn dài, học sinh đã biết ngắt hơi, nhưng ngắt hơi trong thời gian bao lâu thì cũng là điều cần phải hướng dẫn các em. Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh ngắt hơi sau cụm từ bằng thời gian ngắt hơi khi gặp dấu phẩy hoặc dấu chấm phẩy và đương nhiên thời gian đó phải ít hơn thời gian nghỉ khi đọc gặp dấu chấm. Tránh tình trạng học sinh ngắt nghỉ quá lâu làm cho người nghe cảm thấy rời rạc.
Một số người lầm tưởng hướng dẫn đọc ngắt nhịp trong thơ là hướng dẫn đọc diễn cảm. Không phải như vậy, mà đó mới chỉ là cách đọc đúng trong thơ mà thôi. Vậy muốn hướng dẫn học sinh đọc ngắt nhịp thơ đúng thì giáo viên phải nắm vững cách đọc các thể thơ.
Các bài thơ trong sách Tiếng Việt 4 thường được viết theo thể thơ tự do. Vì vậy, ngắt nhịp thơ còn phụ thuộc vào cách cảm nhận của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, giáo viên cần hướng học sinh cảm nhận theo cách khai thác được giá trị nội dung và giá trị thẩm mĩ cao nhất.
Do vậy, khi hướng dẫn học sinh ngắt nhịp thơ, giáo viên cần phải cho học sinh nhận biết bài thơ đó được viết ở thể thơ nào? Cách ngắt nhịp chung của toàn bài ra sao? Song cũng cần phải phát hiện những câu, những đoạn có cách ngắt nhịp khác biệt trong bài để hướng dẫn học sinh. Thực chất ngắt nhịp thơ cũng được dựa trên cơ sở ngắt nhịp theo cụm từ. Do vậy, ngắt nhịp thơ không đúng câu thơ sẽ trở nên tối nghĩa khó có thể cảm nhận được nội dung của bài.
Khi đọc văn bản văn xuôi cũng cần chú ý tới ngắt nhịp, chú ý nghỉ hơi ngắn ở những câu ngắn (ví dụ: Gió thơm. Cây cỏ thơm. Đất trời thơm.) nhằm thể hiện nhịp thở của người đang hít vào để cảm nhận mùi hương lan trong không gian.Tôi tổ chức cho học sinh đọc theo nhóm đôi để các em giúp đỡ nhau tiến bộ.
Rèn kỹ năng đọc diễn cảm
Thực tế nhiều học sinh không có kỹ năng đọc diễn cảm nhưng cứ cố đọc nên xảy ra tình trạng các em đọc nâng cao, hạ thấp hay nhấn giọng một cách tùy tiện khiến cho bài đọc nghe rất khó chịu. Muốn khắc phục tình trạng này thì giáo viên phải hướng dẫn học sinh:
Ta thường hay nhấn giọng ở những từ ngữ gợi tả, gợi cảm (cũng có thể là những từ láy, từ ghép)
Cách đọc các kiểu câu: Câu kể, ở cuối câu có dấu chấm khi đọc thường xuống giọng ở cuối câu. Câu hỏi, ở cuối câu có dấu chấm hỏi, khi đọc ta phải lên giọng ở cuối câu. Câu kể có dấu chấm lửng, khi đọc phải kéo dài giọng. Câu cảm, cầu cầu khiến, ở cuối câu có dấu chấm than khi đọc cần phải lên giọng ở cuối câu.
Đọc diễn cảm còn đòi hỏi người đọc phải nắm chắc nội dung từng đoạn, từng bài, tâm tình và lời nói của từng nhân vật để diễn tả cho đúng tinh thần của câu văn, bài văn. Cho nên, mục đích đọc diễn cảm là bộc lộ ra được cái bản chất của nội dung và trên cơ sở đó muốn truyền đạt đúng những ý nghĩ và tình cảm của tác giả.
Muốn đọc diễn cảm tốt phải hiểu kỹ nội dung của bài tập đọc và phải truyền đạt tốt sự hiểu biết của mình tới người nghe. Học sinh đọc diễn cảm chưa tốt là có một phần nguyên nhân giáo viên chưa giúp học sinh cảm thụ tốt nội dung bài tập đọc.
Giúp học sinh hiểu rõ bài văn, bài thơ hoặc văn bản phải đọc là cái gốc để giúp học sinh đọc diễn cảm tốt hơn. Điều đó cho thấy việc đọc hiểu và phần đọc diễn cảm có quan hệ mật thiết với nhau. Học sinh có khả năng đọc hiểu tốt sẽ tạo điều kiện cho học sinh đó đọc diễn cảm tốt hơn.
Song học sinh có thể đọc diễn cảm tốt hơn nếu như học sinh được nghe cô giáo mình đọc hay, đọc truyền cảm. Giọng đọc hấp dẫn của cô chính là một thứ phương tiện trực quan có hiệu quả nhất giúp trò đọc tốt hơn.
Tích hợp rèn đọc qua những hoạt động khác
Ví dụ, khi ra một đề Toán, giáo viên yêu cầu học sinh phải đọc đúng thì mới hiểu được nội dung bài toán cho gì, hỏi gì. Hay các môn học như Khoa, Sử, Địa... khi học sinh đọc phát âm sai, đọc chưa đúng, đọc ngắc ngứ làm cho nội dung, ý nghĩa bài không liên kết bắt buộc giáo viên phải sửa cho các em để các em hiểu được nội dung bài....
Học đọc qua các hoạt động ngoại khóa: Qua các trò chơi hái hoa dân chủ nếu học sinh đọc sai, đọc chậm bắt buộc giáo viên phải hướng dẫn các em khắc phục tình trạng để kịp với tốc độ mà trò chơi yêu cầu.
Khi tham gia sinh hoạt chủ điểm, học sinh cũng phải nói to, nói rõ ràng, có sức truyền cảm thì mới hấp dẫn người nghe.