Bước đi chiến lược, tháo gỡ 'nút thắt' cho giáo dục nghề nghiệp

GD&TĐ - Một loạt chính sách mới tháo gỡ 'nút thắt' cho giáo dục nghề nghiệp, tiêu biểu là chính sách trong Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Sinh viên Trường Cao đẳng Lý Thái Tổ (Bắc Ninh) giới thiệu cho học sinh THPT trong chương trình trải nghiệm hướng nghiệp. Ảnh: TG
Sinh viên Trường Cao đẳng Lý Thái Tổ (Bắc Ninh) giới thiệu cho học sinh THPT trong chương trình trải nghiệm hướng nghiệp. Ảnh: TG

Vận động trong nhận thức về vai trò giáo dục nghề nghiệp

Theo TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến, ở Việt Nam, nhận thức về vai trò và sứ mệnh của giáo dục nghề nghiệp có sự vận động, phát triển phù hợp với bối cảnh đất nước và tương thích với các xu thế tiến bộ trên thế giới.

Năm 2014, theo quy định của Luật Giáo dục nghề nghiệp, giáo dục nghề nghiệp chỉ có vai trò là một bộ phận của hệ thống giáo dục quốc dân với sứ mệnh giới hạn trong đào tạo nhân lực trực tiếp cho sản xuất, kinh doanh và dịch vụ.

Tuy nhiên, với việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững, nhận thức về vai trò, sứ mệnh của giáo dục nghề nghiệp đã có sự đồng hành với các quan điểm tiên tiến của quốc tế.

Các báo cáo giáo dục nghề nghiệp Việt Nam từ năm 2011 đến nay cho thấy nỗ lực và bước tiến của giáo dục nghề nghiệp qua từng năm trên những lĩnh vực chính. Trong đó bao gồm chính sách phát triển giáo dục nghề nghiệp; thị trường lao động liên quan đến giáo dục nghề nghiệp; mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp; tuyển sinh và tốt nghiệp; nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục nghề nghiệp; tiêu chuẩn kỹ năng nghề và đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia; bảo đảm chất lượng, kiểm định chất lượng giáo dục nghề nghiệp; tài chính cho giáo dục nghề nghiệp; hợp tác với doanh nghiệp.

TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến cho rằng, những bước tiến trên phản ánh sự nhất quán trong nhận thức về vai trò, sứ mệnh của giáo dục nghề nghiệp trong bối cảnh cụ thể của Việt Nam. Theo đó, giáo dục nghề nghiệp đóng vai trò then chốt trong phát triển nguồn nhân lực, với tư cách là khâu đột phá trong việc đưa đất nước bước vào giai đoạn phát triển bền vững, hội nhập.

6 hạn chế cơ bản của giáo dục nghề nghiệp

Tuy nhiên, TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến cũng chỉ ra những hạn chế của giáo dục nghề nghiệp hiện nay.

Chất lượng giáo dục nghề nghiệp tuy đã được cải thiện nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu về chất lượng nguồn nhân lực, hiệu quả đào tạo chưa cao. Quy mô giáo dục nghề nghiệp còn nhỏ, cơ cấu ngành nghề, trình độ đào tạo chưa phù hợp.

Phương thức đào tạo chậm đổi mới, chưa linh hoạt, đa dạng để đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường lao động. Công tác đào tạo lại, đào tạo thường xuyên cho người lao động chưa được chú trọng. Nhiều cơ sở giáo dục nghề nghiệp thiếu cơ sở hạ tầng về phòng học thông minh, thư viện số, phòng thí nghiệm, phòng thực hành và các trang thiết bị phục vụ cho thực hành, thực nghiệm nghề nghiệp.

191.jpg
Học viên Trung tâm GDNN - GDTX huyện Ngọc Lặc (Thanh Hóa) học nghề may. Ảnh: baothanhhoa.vn.

Một số nghiên cứu nước ngoài đã làm rõ hơn các hạn chế, yếu kém của giáo dục nghề nghiệp Việt Nam như sau:

Một là, Chiến lược phát triển giáo dục nghề nghiệp có hệ thống mục tiêu và giải pháp đầy đủ; tuy nhiên vẫn chỉ dừng lại ở những định hướng khung cơ bản, thiếu kế hoạch cụ thể và nguồn lực cần thiết để thực hiện cho từng giải pháp.

Hai là, quản lý Nhà nước về giáo dục nghề nghiệp hướng tới đẩy mạnh phân cấp và phát huy tự chủ nhà trường. Tuy nhiên, những cơ chế quản lý bị phân mảnh cao độ do hệ thống gần 2.000 cơ sở giáo dục nghề nghiệp chịu sự quản lý trực tiếp của các bộ ngành, UBND cấp tỉnh, các tổ chức chính trị - xã hội và các chủ sở hữu tư nhân.

Ba là, vẫn kéo dài phương thức đào tạo chủ yếu dựa trên nhà trường, chênh lệch cung-cầu trong đào tạo cùng sự kém hấp dẫn, kém chất lượng, kém phù hợp của các chương trình đào tạo. Tình trạng vị thế nhà giáo cùng chế độ tiền lương thấp, năng lực hạn chế; hệ thống thông tin thị trường lao động kém hiệu quả… khiến chất lượng đào tạo còn nhiều yếu kém.

Bốn là, sự tham gia của doanh nghiệp vào các hoạt động giáo dục nghề nghiệp ngày càng tăng nhưng vẫn còn hạn chế, thiếu hệ thống và thiếu bền vững.

Năm là, vẫn chưa khắc phục được chênh lệch lớn theo giới tính và khu vực địa lý (thành thị/nông thôn) trong tỷ lệ dân số được đào tạo chuyên môn kỹ thuật ở mọi trình độ đào tạo.

Sáu là, về cơ chế tài chính, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp được khuyến khích huy động các nguồn thu ngoài ngân sách. Tuy nhiên, hiện chưa có nhận thức chung về mức độ thực sự của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp liên quan đến khả năng bù đắp các khoản chi thường xuyên và không thường xuyên bằng các khoản thu đó. Điều này có thể dẫn đến sự bất bình đẳng cao hơn trong việc tiếp cận các cơ hội tiếp cận giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao; còn vai trò đóng góp bền vững của khu vực tư nhân cho giáo dục nghề nghiệp vẫn chưa đáng kể.

Cơ hội chưa từng có cho giáo dục nghề nghiệp

Trong bối cảnh này, TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến nhắc đến cơ hội cho giáo dục nghề nghiệp với các chính sách mới được ban hành.

Cụ thể, Kết luận số 91-KL/TW của Bộ Chính trị yêu cầu: Tập trung đầu tư hiện đại hóa giáo dục nghề nghiệp… Tiếp tục phát triển giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, hội nhập, gắn với thị trường lao động…Tập trung đầu tư chiều sâu, cơ sở vật chất, nguồn nhân lực chất lượng cao đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học công lập ở một số ngành, nghề, lĩnh vực mang tầm cỡ khu vực và quốc tế…

Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị đã đưa ra một chủ trương mang tính cách mạng: Bảo đảm quyền tự chủ đầy đủ, toàn diện cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, không phụ thuộc vào mức độ tự chủ tài chính. Cùng với đó là việc xác lập một mô hình quản trị mới, không tổ chức hội đồng trường, tăng cường vai trò lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của tổ chức đảng, thực hiện bí thư cấp ủy kiêm người đứng đầu cơ sở giáo dục.

Đây là một bước đi chiến lược, thể hiện quyết tâm chính trị mạnh mẽ nhằm tháo gỡ các điểm nghẽn, nút thắt về thể chế, cơ chế và chính sách, hướng tới kiến tạo phát triển. Từ đó, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp có thể chủ động thích ứng và đáp ứng kịp thời các yêu cầu mới của thị trường lao động biến động nhanh chóng dưới tác động sâu rộng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và trí tuệ nhân tạo.

TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến cũng đề cập đến cơ hội từ việc thống nhất đầu mối quản lý về giáo dục và giáo dục nghề nghiệp. Cùng với đó, Luật Giáo dục nghề nghiệp đang được sửa đổi theo hướng tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn, điểm nghẽn trong thực tiễn nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp; kiến tạo môi trường pháp lý thuận lợi, đồng bộ, thống nhất để cải cách, hiện đại hóa giáo dục nghề nghiệp, tạo đột phá phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng nghề cao.

“Rõ ràng chúng ta đang hướng tới một hệ thống giáo dục nghề nghiệp chuyển đổi, vừa đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên vươn mình, vừa phù hợp với xu thế tiến bộ của thế giới”, TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến cho hay.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ