Đọc thơ ông, ta cảm nhận được một trong những nội dung nổi bật là tình yêu thiên nhiên say đắm, nồng nàn, tình yêu đất nước sâu sắc của bậc hiền nhân.
Bàn về công việc làm thơ, ngay từ thế kỷ XVIII, Lê Quý Đôn đã từng nói: “Làm thơ có ba điều chính: Một là tình, hai là cảnh, ba là sự. Đời sống bình thường nhất của con người cũng là nằm trong cái bộ ba tình – cảnh – sự ấy. Cảnh chủ yếu là thiên nhiên, ngoại vật, sự là chuyện con người, chuyện xã hội, còn tình là do cảnh và sự tác động vào con người mà sinh ra vậy”.
Đó là những trăn trở, suy tư của Lê Quý Đôn suốt một đời cầm bút. Rõ ràng, ông đã nhìn thấy được sự thống nhất, chan hòa vào nhau giữa khách quan và chủ quan. Nếu cảnh chỉ là cảnh, sự chỉ là sự, nghệ sĩ hoàn toàn bàng quan, không đối cảnh sinh tình thì cũng không thể có cảm hứng sáng tạo.
Thơ viết về thiên nhiên của Nguyễn Trãi chiếm phần lớn và cũng là những bài thơ hay nhất trong hai tập thơ của ông, “Thơ chữ Nôm” (do hai nhà nghiên cứu Trần Văn Giáp và Phạm Trọng Điềm phiên âm, chú giải, NXB Văn Sử Địa, Hà Nội, xuất bản năm 1956) và tập “Thơ chữ Hán” (do các nhà Hán học uyên thâm: Phan Võ, Lê Thước và Đào Phương Bình dịch, NXB Văn hóa, Hà Nội, xuất bản năm 1962).
Thiên nhiên thấm đẫm cảm xúc, tâm hồn thi nhân
Thiên nhiên nước ta, qua con mắt nhà thơ Nguyễn Trãi, hiện lên rất đa dạng, sinh động, có sức sống riêng. Đứng trước một cảnh vật, từ những cảnh tượng hùng vĩ như Vân Đồn, cửa bể Bạch Đằng, cửa bể Thần Phù, cảnh Côn Sơn đến những cảnh bình dị như một ánh trăng, một buổi chợ, một bông hoa nở, một nõn chuối, một luống mồng tơi, hay một tiếng chim kêu... tất cả đều gợi lên trong tâm tưởng Ức Trai những tứ thơ mênh mông, lai láng, những khoảnh khắc say sưa, nồng nhiệt.
Thật đúng là Nguyễn Trãi đã có một mối tình với thiên nhiên, như ông viết: Non nước cùng ta đã có duyên (Tự thán 4). Ông đã biểu hiện thiên nhiên ấy với nhiều màu sắc, đường nét, âm thanh. Và thiên nhiên cũng mang chở tâm hồn con người, mang tư tưởng, tình cảm của nhà thơ. “Cảnh ngày hè” - “Bảo kính cảnh giới số 43”, trong “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi là một tấc lòng ưu ái của ông với cảnh, với tình.
Phần lớn thơ thuộc “Bảo kính cảnh giới” vẫn nghiêng về những gương báu tự răn mình, đúng như chủ đề chung của cả chùm. Trong khi đó, bài 43 này, dù không phải không có cái ý răn mình, nhưng lại nghiêng nhiều về tức cảnh. Chốn quan trường với những toan tính chèn ép “hoa thời thường héo, cỏ thường tươi” đã khiến ông đã quyết định tìm về với thiên nhiên để cho tâm hồn mình thanh tịnh. Toàn thi phẩm là tâm tình nồng hậu của Ức Trai trước cảnh tượng hưng thịnh của ngày hè.
Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp gương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Trước hết, câu thơ mở đầu thể hiện tâm trạng của nhà thơ trong những ngày hè, những ngày về cáo quan ở ẩn gạn đục khơi trong: “Rồi hóng mát thuở ngày trường”. Chữ “rồi” - thanh bằng mở đầu bài thơ, khác với nhiều nhà thơ Trung đại khác như Bà Huyện Thanh Quan: Bước tới đèo Ngang bóng xế tà, hay Nguyễn Khuyến “Đã bấy lâu nay bác tới nhà”.
“Rồi” ở đầu câu thể hiện một tâm trạng rảnh rỗi của nhà thơ ở chốn thôn quê. Nó không có sự bon chen đố kỵ, chèn ép của những tinh thần. Tại sao nhà thơ không nói là rỗi mà lại là “rồi”? Có thể nói chữ “rỗi” và chữ “rồi” đều nói lên cùng một tâm trạng nhưng nhà thơ sử dụng từ “rồi” gợi cảm giác xưa cũ hơn. Bởi vì từ “rỗi” là sau này mới có, nó mang tính chất hiện đại, là sự cảm nhận tức thì còn rồi là sự lắng sâu, chiêm nghiệm. Rồi cũng ngầm thông báo rằng nhà thơ đã cáo quan về với thiên nhiên làng cảnh Việt Nam.
Từ tâm trạng bình thản, vững vàng sau những biến cố, thăng trầm trong cuộc sống của một con người đã trải qua bao nhiêu biến thiên của lịch sử, nhà thơ đã vẽ lên một bức tranh cảnh ngày hè vô cùng rực rỡ ở những câu thơ tiếp theo. Bức tranh ấy không chỉ có thiên nhiên mà còn có cả con người.
Trong bức tranh đậm màu, nền trời chiều ráng đỏ, một ngôi lầu vắng lặng, cây hoè cổ thụ ngoài sân tán xanh thẫm, che rợp, bên hiên nhà cây thạch lựu sắc đỏ, vài ba chú ve trên các cành cây, ao sen hồng và xa xa là làng chài đang họp chợ. Có một người ngồi trên lầu trầm ngâm. Xem tranh, trước hết ta thấy một tư thế của con người ngồi đó. Câu mở đầu “hóng mát” - ngoạn cảnh nhàn nhã, thảnh thơi.
“Cảnh ngày hè” là bức tranh thơ của vị tướng cầm quân từng xông pha trận mạc một thời, từng “đau lòng nhức óc” vì vận nước, từng cùng Lê Lợi “dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới” và sau này sắm vai ẩn sĩ mà tấm lòng vì dân nước không lúc nào yên: “Bui một tấc lòng ưu ái cũ/ Đêm ngày cuồn cuộn nước triều dâng”.
Đặt trong nỗi truân chuyên của cuộc đời Nguyễn Trãi, mới thấy quý cái giây phút ngắn ngủi hiếm hoi này, mới thấy cái tư thế ung dung thưởng ngoạn kia là sự hưởng thụ chân chính. Sau tư thế ấy, thấy cả cái không khí yên bình của cả một làng quê, đất nước vừa qua cơn binh lửa dằng dặc hơn 20 năm.
Hòe lục đùn đùn tán rợp gương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Người đang ngắm cảnh hẳn có ánh mắt tinh tế, say mê. Giữa muôn loài cây của chốn làng quê Việt thi nhân đã chọn ba loại cây, ba dáng vẻ, không trùng lặp. Tả cây, mà lộ ra khuôn mặt của mùa Hè. Cây hòe: Tán xanh xum xuê, toả rộng - sức sống vươn cao; thạch lựu: Sắc đỏ - rực rỡ, mạnh mẽ; sen hồng: Đậm hương - tâm hồn nồng hậu, thanh cao. Ba loại cây, ba dáng vẻ, ba màu sắc đều có hồn. Một bức tranh thôn quê bình dị, mộc mạc mà thanh cao thấm đẫm hương vị cuộc sống. Ngôn ngữ của thơ không chỉ có họa mà còn mang âm hưởng ấm áp, sinh động của đời thường.
Từ láy “đùn đùn” được dùng thật đắt khiến ta cảm nhận được sự sống đang sinh sôi, nảy nở mạnh mẽ, cuồn cuộn, có thể cảm nhận được, trông thấy được bằng mắt thường. Sau tính từ vừa động từ đùn đùn là động từ “phun”. Không tả hoa đỏ, mà cảm nhận cây lựu đang tuôn sắc đỏ rực rỡ. Từ tiễn trong “Hồng liên trì đã tiễn mùi hương” cũng khẳng định nghệ thuật dùng từ của nhà thơ. Tiễn được hiểu theo từ Hán Việt là có thừa, có đầy, là ngát, là nức. Sen hồng ở trong ao đã kịp tỏa ngát mùi hương cùng thạch lựu. Thiên nhiên ngập tràn sức sống trong khung cảnh ngày hè.
Bức tranh mùa Hè không chỉ rực rỡ sắc màu mà còn rộn rã âm thanh. Đó là tiếng ve kêu trong những khoảnh khắc cuối cùng. Đó là những thanh âm lao xao của sự sống ở một làng chợ ven sông, náo nhiệt, sinh động, thanh bình... Nếu “lao xao” là khúc hòa tấu của đời sống dân sinh, thì “dắng dỏi cầm ve” tấu lên âm thanh của cây đàn độc huyền, ngân lên thiết tha cuối chiều, vấn vương nét quý tộc, lầu cao đơn độc. Hai phong điệu dân dã và quý tộc hoà hợp, bởi chất keo dính của đời thường, đậm đà hơi thở cuộc sống. Cái âm thanh ấy như tác động đến tâm hồn người nghệ sĩ. Đó là lửa sống đang rừng rực cháy trong trong khối óc, trong tâm hồn Ức Trai.
Ảnh minh họa. |
Ước nguyện cho nhân dân có một cuộc sống đầy đủ, thái bình
Dường như có sự tương đồng ở con người họa sĩ trong thi nhân Nguyễn Trãi thế kỉ XV của Việt Nam và đại danh họa Hà Lan thế kỉ XIX, Van Gogh. Không chỉ phải ở những sắc màu được sử dụng, mà ở cách diễn tả nó. Van Gogh vẽ đồng lúa ta cứ ngỡ cánh đồng bốc cháy. Hàng cây bên đường cũng quằn quại vệt lửa.
Van Gogh đốt cháy mình trong tranh. Nguyễn Trãi cũng đốt cháy mình trong thơ “thuở ngày trường”. Cũng có thể nói rằng đó chỉ là cuộc sống đời thường thôi nhưng tại sao khi cảm nhận ở đây ta lại thấy nó đẹp đến thế. Cái đẹp xuất phát từ những cái quá đỗi bình thường không cầu kì, giả tạo; cái đẹp xuất phát từ sự giản đơn của sự sống, từ sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên. Trong một bài thơ khác ông cũng đã phác họa một bức tranh ngày hè chan chứa nỗi niềm:
Vì ai cho cái đỗ quyên kêu,
Tay ngọc dùng dằng chỉ biếng thêu.
Lại có hoè hoa chen bóng lục,
Thức xuân một điểm não lòng nhau.
(Cảnh hè)
Đến đây, người đọc như nghe những câu Kiều của đại thi hào Nguyễn Du vọng về trong tâm tưởng:
Cuối trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông.
Bằng việc sử dụng nghệ thuật nhân hóa quyên đã gọi hè, người đọc cảm nhận được bước đi của thời gian sau tiếng chim vừa như khắc khoải, tiếc nuối vừa như thôi thúc, giục giã. Bên cạnh đó, nghệ thuật ẩn dụ lửa lựu lập lòe đơm bông đã gợi tả chính xác màu sắc cho đến trạng thái lấp ló lúc ẩn, lúc hiện đầy quyến rũ và mê hoặc của những bông hoa lựu đỏ trong tán lá xanh dưới đêm trăng.
Chỉ với hai hình ảnh, bằng bút pháp chấm phá của Đường thi, thiên nhiên trong Truyện Kiều như một nhân vật tinh tế, nhẹ nhàng, e ấp mà sống động, thần tiên. Tất cả hiện lên một bức tranh mùa Hè đẹp, sinh động nơi làng quê yên ả, thanh bình. Cho nên vẽ một bức tranh đâu chỉ là chuyện của giác quan chuyên nghiệp của người họa sĩ mà còn là năng lực, phẩm chất của tâm hồn - tâm hồn tinh tế, đằm thắm của một con người hết mực yêu đời, say mê cuộc sống.
Mạch thơ có sự thay đổi linh hoạt, từ hướng ngoại sang hướng nội, từ tả cảnh sang tả tình, từ miêu tả sang biểu cảm, từ khách thể sang chủ thể. Nguyễn Trãi đã trực tiếp bộc lộ nỗi lòng mình trong hai câu thơ kết bài.
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Câu thơ thể hiện ước nguyện của nhà thơ mong muốn mượn được chiếc đàn của vua Ngu Thuấn đàn một tiếng cho nhân dân giàu khắp bốn phương. Từ truyền thuyết tiếng đàn của vua Ngu Thuấn nhà thơ thể hiện ước nguyện sự lo lắng cho nhân dân. Mong có thể giúp đỡ cho nhân dân có một cuộc sống đầy đủ yên ổn thái bình. Hơn bốn trăm năm về trước, thời Tiền Lê, Pháp Thuận đã phát biểu:
“Vận nước như mây cuốn
Trời Nam mở thái bình
Vô vi trên điện các.
Xứ xứ tức đao binh”.
(Vận nước có rối ren thế nào cũng mong hai chữ thái bình, nhà vua đừng làm điều gì nhiễu nhương thì khắp nơi đều hết nạn binh đao).
Hay Trần Quang Khải trong “Tụng giá hoàn kinh sư” cũng đã tâm nguyện và khao khát:
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang san.
(Thái bình nên gắng sức, non nước ấy ngàn năm)
Sau mấy mươi năm, vị vua hiền minh Lê Thánh Tông cố sức mình cũng chỉ để thỏa lòng mong muốn:
“Nhà nam nhà bắc đều có mặt
Lừng lẫy cùng ca khúc thái bình”
Bây giờ đây, ưu tư thế cuộc, nhìn đời - từ cỏ cây, vạn vật đến sinh linh vui sống như thế, Nguyễn Trãi lại khắc khoải khát vọng muôn năm này. Mong trị quốc, bình thiên hạ sao cho dân giàu nước mạnh là giấc mơ của một bậc đại nhân.
Ấy là một giấc mơ, một khát vọng và cả một học thuyết nhân sinh ấp ủ xuyên suốt trong cuộc đời Nguyễn Trãi mà trong Bình Ngô đại cáo ông đã viết: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Khát vọng mãnh liệt, đó là khát vọng về thời Nghiêu Thuấn – khát vọng chân chính ngàn đời của những con người phương Đông sống trong thời có chúa, có vua, trong thời kỳ phong kiến.
Với Nguyễn Trãi, tư tưởng ấy từng sôi sục trong hành động, khắc khoải trong tâm tưởng, rát bỏng trong thi ca. Cả bài thơ 8 chữ, đến tận dòng cuối cùng, chữ “dân” mới bật ra, song chính là cái nền tư tưởng, tình cảm của tác giả, cái hồn của bài thơ. Là sợi chỉ đỏ xâu chuỗi cả tám câu thơ lại.
Như vậy Cảnh ngày hè – “Bảo kính cảnh giới” số 43 – gương báu răn mình không chỉ là một bức tranh thiên nhiên vô cùng đẹp, rực rỡ sắc màu, rộn rã âm thanh, đặc trưng của mùa Hè ở chốn quê hương mà còn thể hiện, gửi gắm được một tâm hồn trung nghĩa, một tấc lòng đau đau với nhân dân, với đất nước của một nhà thơ, một nhà quân sự tài ba ở thế kỷ XV. Xa rời chốn quan trường đầy rẫy những bất công thị phi nhưng ông không lúc nào không lo cho nhân dân, mong muốn nhân dân có một cuộc sống an lành bình yên.
Bài thơ đã cho thấy một nhân cách vĩ đại, một tâm hồn chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân và yêu đất nước của nhà thơ đúng như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định: “Đối với Nguyễn Trãi, yêu nước là thương dân, để cứu nước phải dựa vào dân và cứu nước để cứu dân, đem lại thái bình cho dân, cho mọi người”. Như vậy tư tưởng yêu nước của Nguyễn Trãi có nội dung tiến bộ hơn, dân chủ hơn trong thời đại phong kiến – tư tưởng vượt thời gian. Tư tưởng ấy thật đáng trân quý biết bao nhiêu!