Mặt khác hiệu quả giáo dục cao, giúp các em có cơ hội trở thành phiên bản tốt đẹp hơn của chính mình.
Không “gạt bỏ” học trò ra ngoài xã hội
Từ góc nhìn chuyên gia tâm lý, ThS Lê Trung Kiên - Phó Viện trưởng Viện Tâm lý Giáo dục và Đào tạo (IPET) cho rằng, việc bỏ hình thức đuổi học mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc và có tác động tích cực đến sự phát triển toàn diện của học sinh.
Trước hết, cần nhìn nhận đuổi học là biện pháp kỷ luật mang tính loại trừ, đặt học sinh ra ngoài môi trường giáo dục - điều này đi ngược với mục tiêu cốt lõi của giáo dục là nuôi dưỡng và phát triển con người. Nhà trường vốn dĩ là không gian an toàn để các em được học hỏi, sửa sai và trưởng thành.
Nếu bị đẩy ra khỏi trường lớp, học sinh dễ rơi vào tâm lý “cùng cực”; nhẹ thì ở trạng thái mặc cảm, tự ti, chán chường, buông xuôi; nặng có nguy cơ sa vào các hành vi lệch chuẩn, thậm chí dễ có tâm lý phản xã hội, dẫn tới phạm tội do mất định hướng và thiếu đi sự hỗ trợ từ thầy cô, bạn bè. Tâm lý phản xã hội thường khởi phát từ tuổi thiếu niên - độ tuổi ngồi trên ghế nhà trường.
Việc thay thế hình thức đuổi học bằng các biện pháp kỷ luật mang tính giáo dục và phục hồi như tư vấn tâm lý, lao động công ích (trong hoặc ngoài trường) hay tham gia các khóa học kỹ năng… đòi hỏi việc xây dựng những quy trình, quy chế và sự phối hợp chặt chẽ của nhiều bên, từ gia đình, nhà trường, lực lượng chức năng, các bộ phận chuyên trách trong bộ máy xã hội.
Việc này biến giáo dục trở thành trách nhiệm của toàn xã hội nhưng đây là một thử thách rất lớn. Ngay trong nhà trường, sự thiếu vắng cả về chất lượng lẫn số lượng các chuyên gia tâm lý, những người được đào tạo và có kinh nghiệm xử lý những vấn đề của học sinh vi phạm kỷ luật đã là rào cản không nhỏ. Do đó, cơ quan chức năng cần cho ra những văn bản hướng dẫn nêu rõ thẩm quyền, phạm vi xử lý, trách nhiệm từng bên trong việc giáo dục học trò có những vi phạm kỷ luật.
“Chúng ta cần phân biệt rõ các loại hình, tình huống vi phạm để xử lý sao cho thấu tình, đạt lý, đảm bảo hiệu quả giáo dục cũng như tính mô phạm trong môi trường học đường. Nếu làm được điều này, học sinh không bị gạt bỏ, mà được trao cơ hội để nhìn nhận lại hành vi, hiểu rõ hậu quả và học cách chịu trách nhiệm. Đây chính là quá trình ‘giáo dục trong kỷ luật’, giúp các em phát triển năng lực tự điều chỉnh, cảm nhận được sự quan tâm, bao dung từ nhà trường và xã hội”, ThS Lê Trung Kiên nói.
Là chuyên viên tham vấn tâm lý học đường tại Trường THCS Nguyễn Trường Tộ (phường Ô Chợ Dừa, Hà Nội), cô Đỗ Thị Trang cho biết, việc bỏ hình thức “đuổi học” là chủ trương nhân văn và tiến bộ, phù hợp với xu hướng giáo dục tích cực và bao dung. Học sinh vi phạm thường do khó khăn về tâm lý hoặc môi trường và cần được hỗ trợ, không nên bị loại bỏ.
Kỷ luật phục hồi giúp học sinh nhận thức được hành vi, học cách điều chỉnh cảm xúc, và tăng cường trách nhiệm cá nhân. Chính sách này chuyển từ “trừng phạt” sang “giáo dục phục hồi” giúp duy trì mối quan hệ thầy trò và trường học an toàn. Để hoạt động hiệu quả cần tăng cường chuyên viên tâm lý học đường và tập huấn cho giáo viên về kỷ luật tích cực.
Cần sự phối hợp từ các bên
Theo cô Đỗ Thị Trang - giáo viên Trường THCS Nguyễn Trường Tộ, hoạt động tư vấn tâm lý học đường được triển khai theo hướng tích hợp và thân thiện. Nhà trường thành lập Phòng tham vấn tâm lý, có cán bộ phụ trách chuyên môn và mạng lưới giáo viên kiêm nhiệm được tập huấn.
Hoạt động tư vấn được thực hiện qua các hình thức chính: Tư vấn cá nhân cho học sinh có khó khăn về học tập, quan hệ, cảm xúc, hành vi; tư vấn nhóm theo chuyên đề (quản lý cảm xúc, kỹ năng giao tiếp, ứng phó căng thẳng…); phối hợp với giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh để theo dõi, hỗ trợ học sinh có biểu hiện đặc biệt.
“Trong các tình huống kỷ luật, thay vì phạt nặng, nhà trường chuyển hướng sang tư vấn phục hồi hành vi giúp các em nhận biết được sai phạm, rút kinh nghiệm và đặt mục tiêu thay đổi. Mô hình này giúp giảm xung đột, tăng sự gắn kết thầy trò, đồng thời nâng cao năng lực cảm xúc - xã hội (SEL) cho học sinh”, cô Đỗ Thị Trang bày tỏ.
Có con đang học lớp 12 tại Hà Nội, chị Lê Thanh Nga (trú phường Hà Đông) chia sẻ, việc chuyển sang các hình thức như viết kiểm điểm có cam kết của gia đình và các hoạt động hỗ trợ, tư vấn sẽ giúp học sinh vi phạm tự nhận thức và tự giác điều chỉnh hành vi. Tuy nhiên, sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và học sinh phải thực sự chặt chẽ chứ không chỉ là hình thức.
“Giáo dục là quá trình hỗ trợ học sinh nhận ra sai lầm của mình và tự giác sửa chữa. Việc giữ học sinh ở lại môi trường học đường sẽ giúp các em tiếp tục nhận được sự giáo dục, tư vấn và hỗ trợ điều chỉnh hành vi từ thầy cô, chuyên gia tâm lý. Chúng ta hãy nhìn nhận vấn đề này một cách toàn diện, khách quan và dựa trên những yêu cầu từ thực tế để đảm bảo quyền lợi của học sinh”, chị Nga tâm sự.
Từ thực tiễn quản lý, ông Nguyễn Cao Cường - Hiệu trưởng Trường THCS Thái Thịnh (Đống Đa, Hà Nội) nhìn nhận, những biện pháp kỷ luật tích cực giúp giảm tái phạm, tăng cường sự gắn kết của học sinh với trường lớp và cải thiện bầu không khí học đường. Khi học sinh cảm thấy mình vẫn được chấp nhận, các em có động lực thay đổi hành vi, phát triển kỹ năng xã hội và xây dựng lòng tự trọng.
Quan trọng hơn, việc này còn góp phần hình thành một môi trường giáo dục công bằng, nơi mọi học sinh dù mắc lỗi vẫn có cơ hội được học tập và trưởng thành. Tóm lại, bỏ hình thức đuổi học không chỉ là một quyết định mang tính nhân văn, mà còn là bước đi đáng khích lệ trong việc hỗ trợ sự phát triển tâm lý, nhân cách và kỹ năng sống của học sinh.
“Giáo dục không phải loại trừ mà là đồng hành và dẫn dắt, để mỗi học sinh có cơ hội trở thành phiên bản tốt đẹp hơn của chính mình. Tuy nhiên, để việc loại bỏ hình thức kỷ luật này không làm ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường giáo dục tổng thể cũng như khiến nền nếp, kỷ cương của nhà trường đi xuống thì cần có sự chung tay của nhiều lực lượng trong xã hội; nhất thiết phải có sự hướng dẫn, tổ chức thực hiện bài bản từ các cấp lãnh đạo”, ThS Lê Trung Kiên phân tích.