Sinh ra trên mảnh đất giàu truyền thống cách mạng vùng Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, con của một gia đình cán bộ địa phương, Hoàng Ngọc Trân (tên thật của nhà giáo Trần Trâm phương) sớm đi theo con đường của ba mẹ.
Năm 1954 lúc vừa tròn 20 tuổi đang là đảng viên trẻ của Trung đoàn bộ binh 96, Ngọc Trân được chọn vào danh sách tập kết ra Bắc. Hơn 63 năm đã trôi qua nhưng bây giờ mỗi lần đánh thức lại kỷ niệm, ông vẫn thấy tất cả như mới hiển hiện trong ngày hôm qua: “Tôi cùng ba được ưu tiên đi chuyến đầu tiên do chiếc tàu của Na Uy chở ra đến tận Cửa Lò, Nghệ An. Trên chuyến tàu này, tôi bất ngờ gặp được người anh ruột Hoàng Ngọc Trai của mình”. Thế là từ đó ba cha con cùng đồng đội trên con tàu theo hướng Bắc mà thẳng tiến.
Đi làm cách mạng, sớm dang dở chuyện học hành nên ra Bắc ông có thêm cơ hội học bổ túc văn hóa tại Trường Văn hóa quân đội ở Kiến An (Hải Phòng) để sau đó trở thành SV của Trường ĐHSP Hà Nội 1. Năm 1961, ra trường với tấm bằng loại khá, ông được giữ lại trường làm giảng viên cho khoa Vật lý.
Đây chính là thời gian đáng nhớ nhất của chàng trai quê Quảng Ngãi vì có thêm người bạn gái học chung lớp trong trường SP. Giảng đường đại học đã trở thành chốn hẹn hò với cô gái Hà Thành, để sau đó họ có một đám cưới giản dị nhưng ấm cúng. Món quà tinh thần mà cô SV Trần Thị Phượng thích nhất là bài thơ Nhớ con sông quê hương của Tế Hanh vì gợi lên hình ảnh thân thương và tình cảm trìu mến của vùng đất Quảng mà mình đã gửi gắm cả cuộc đời từ đây.
Nếu cuộc đời của họ là một cuốn phim dài tập thì giai đoạn này là một tập phim đầy màu sắc hạnh phúc với những cung bậc yêu thương đằm thắm nhất. Kết quả của những năm tháng mặn nồng là cặp sinh đôi hai “công chúa” Hoàng Ngọc Trâm và Hoàng Ngọc Phương ra đời .
Thế nhưng đầu năm trong căn nhà khu tập thể có thêm 2 thành viên “tý hon” thì cuối năm lại giảm đi một thành viên trụ cột, nhà giáo Ngọc Trân lên đường vào Nam chiến đấu. Nhà giáo Trần Thị Phượng nhớ về kỷ niệm một thời “thân cò lặn lội”: “Hai cháu sinh ra nhẹ ký yếu ớt do suy dinh dưỡng nên chăm rất cực, chưa tròn năm phải xa ba. Thế là tôi một mình nuôi hai con nhỏ một lúc”.
Hoàn cảnh của cô giáo Phượng cũng chính là hỉnh ảnh phổ biến của người phụ nữ miền Bắc lúc bấy giờ, phải ráng làm tròn việc nhà việc nước để chồng con yên tâm vững bước lên đường. Ngoài chiếc ba lô trên vai, gánh nặng lớn nhất của thầy giáo Trần Trâm Phương là nỗi nhớ vợ con trên đất Bắc biết khi nào hẹn được ngày gặp lại.
Hòa vào đội ngũ Đoàn K33 hành quân qua dãy Trường Sơn hùng vĩ, ông cùng đồng đội, cũng là đồng nghiệp vào tận căn cứ TW cục ở Tây Ninh để chuẩn bị gieo mầm cho sự nghiệp GD. Nhưng nhiệm vụ đó mãi tới 4 năm sau mới thực hiện được vì ông bất ngờ được tổ chức chuyển sang quân đội làm cán bộ chính trị cho cục Hậu cần thuộc Bộ tư lệnh miền.
Ban ngày xuống cơ sở mở trường, mở lớp đào tạo GV cấp tốc, ban đêm nằm trong căn hầm dã chiến giữa rừng già biên giới Tây Nam, thầy giáo “độc thân mà có vợ” lại nhớ quay quắt đất Thăng Long. Mãi đến 10 năm sau trong “đêm trước” của chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân 1975, hai vợ chồng mới có dịp đoàn tụ.
Cho tôi xem từng bức hình trong cuốn album gia đình, ông đều có những chú thích cặn kẽ về thời gian xuất xứ: “Năm 1974, tôi được lệnh ra Bắc sớm chuẩn bị cho sự kiện tiếp quản Sài Gòn không lâu sau đó. Được trở về Bắc là niềm mong ước của nhiều thầy giáo đi B, nhất là những ai đã để lại “một nửa cuộc đời” của mình ở hậu phương.
Phù sa hạnh phúc lại mặn nồng như thuở ban đầu và đó cũng là kết quả nhiều ngày mong đợi để họ có thêm cậu con trai út Hoàng Toàn Thắng ra đời đúng vào năm 1975. Cũng giống như lần sinh nở trước, bà lại một mình “vượt cạn” trong nỗi nhớ, khi chồng trở lại miền Nam lần 2.
Khó khăn lại bắt đầu bủa vây ngôi nhà thiếu bàn tay người chồng trụ cột nhưng đằng sau sự lẻ loi của người vợ còn có chỗ dựa vững chắc là gia đình bên ngoại. Tình thương yêu của các cậu, các dì đã nuôi ba cháu khôn lớn và vững vàng hơn trên con đường học hành. Đây cũng là thời gian bà được bầu làm Đại biểu Quốc hội khóa 5, phó Hiệu trưởng ngôi trường cấp 3 Xuân Đỉnh, lá cờ đầu của ngành GD toàn miền Bắc.
Chỉ đến lúc sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, sự trống vắng mới được lấp đầy khi cả bốn mẹ con theo chồng, theo cha vào TPHCM định cư. Mặc dù bận rộn với trách nhiệm của một người đứng đầu Trường cấp 3 Nguyễn An Ninh, nhưng khi về nhà, nữ hiệu trưởng vẫn làm tròn “nhiệm vụ của một người mẹ, người vợ đảm đang, tháo vát.
Nền tảng vững chắc mà cha mẹ kiến tạo nên đã thành bệ phóng có sức bật lớn để chị em song sinh Ngọc Trâm - Ngọc Phương và Toàn Thắng lần lượt vào Đại học. Trong khi hai em của mình đi theo con đường kinh tế thì chị Hai Ngọc Trâm lại nối tiếp nghiệp của cha mẹ, dạy ngoại ngữ tại trường ĐHSP TPHCM. Được đào tạo ở Mỹ, Toàn Thắng không bằng lòng với tấm bằng kiến trúc sư, mà còn học lên cao học để lấy kiến thức làm “bàn đạp” thăng tiến.
Sau khi trả lại ngôi nhà cấp tạm chật chội bên cạnh Trường THPT Lê Quý Đôn, vợ chồng nhà giáo Trần Trâm Phương về sống trong căn nhà yên tĩnh trong con hẻm rộng trên đường Tô Hiến Thành, Q.10. Với những cống hiến cho cuộc chiến tranh và nghề dạy học, với 65 năm và 50 năm tuổi Đảng ông bà đã nhận được Huân chương kháng chiến hạng Nhất, Huân chương độc lập hạng Ba, Huân chương Lao động và nhiều giấy khen khác. Hai cháu nội và 3 cháu ngoại chính là niềm vui hỉ hả hàng ngày của hai ông bà khi tuổi đã về già không thể gì sánh được.