Thực tế, trong các tiết học, hầu hết giáo viên đều đã và đang thực hiện phương pháp này nhưng không phải lúc nào cũng đạt hiệu quả.
Lưu ý trong khâu chuẩn bị bài giảng
Cô Ngô Thị Hằng - Giáo viên Trường PTDT Nội trú huyện Tân Uyên (Lai Châu) – cho rằng: Để thực hiện tốt tái hiện biểu tượng lịch sử cho học sinh, khâu chuẩn bị nội dung bài giảng rất quan trọng. Với khâu này, giáo viên cần chú ý:
Đọc trước bài học trong sách giáo khoa, sách giáo viên, sách chuẩn kiến thức kĩ năng, sách hướng dẫn sử dụng kênh hình; tìm những nội dung trọng tâm, nắm vững các thuật ngữ lịch sử, nội dung các khái niệm mới được sử dụng trong bài giảng. Lựa chọn cách thức liên môn để làm sống lại các biểu tượng lịch sử.
Đọc các tài liệu liên quan đến nội dung bài học: Tư liệu, tài liệu Lịch sử, Văn học, Địa lý, Âm nhạc, Mĩ thuật, GDCD, ... kết hợp với lối diễn đạt, sẽ giúp học sinh hình dung về quá khứ, tái tạo quá khứ, làm “sống lại quá khứ”.
Trong quá trình dạy - học, giáo viên và học sinh cần có sự phối hợp nhịp nhàng. “Tôi luôn coi học sinh là trung tâm bằng việc cho các em xác định loại biểu tượng lịch sử đang tìm hiểu, sau đó hướng dẫn học sinh dựa vào sách giáo khoa để đọc và tự ghi tóm tắt ngắn gọn những vấn đề cơ bản; tập quan sát tranh ảnh bản đồ, lược đồ có trong bài; đưa ra ý kiến nhận xét, đánh giá về các sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử, địa danh lịch sử quan trọng có trong bài học; sưu tầm tư liệu, tranh ảnh có liên quan đến bài học (nếu có)” – Cô Hằng cho biết.
Về phía giáo viên, theo cô Hằng, nếu chỉ giới thiệu sơ lược, qua loa, hời hợt nội dung và hình ảnh trong sách giáo khoa, học sinh sẽ không có cảm nhận về nhân vật, sự kiện, địa danh lịch sử, ... dẫn đến không có biểu tượng trong đầu.
Kinh nghiệm cho thấy, khi dạy đến nhân vật lịch sử, địa danh, sự kiện lịch sử, ... giáo viên phải nhấn mạnh vài đặc điểm nổi bật, đặc điểm riêng; kết hợp dạy học liên môn đến văn học, âm nhạc, địa lí; xen lẫn kể tóm tắt các câu chuyện đã để lại dấu ấn sâu đậm về sự kiện, nhân vật hay địa danh lịch sử kết hợp liên hệ đến thời hiện tại.
Chỉ cần một lần giáo viên tái hiện tốt được biểu tượng lịch sử, học sinh sẽ dễ hiểu và nhớ lâu, có cảm nhận tốt và mong muốn được tìm hiểu, khám phá về sự kiện, nhân vật, địa danh lịch sử.
Như thế giáo viên không cần phải nhắc lại nhiều lần cũng đã giúp học sinh nắm vững được các sự kiện, hiện tượng quá khứ một cách cụ thể có hình ảnh, có biểu tượng lịch sử trong trí não của các em, giúp học sinh hứng thú và ham thích môn học.
Dùng văn học để tăng dấu ấn lịch sử
Để tái hiện được biểu tượng lịch sử, trong các tiết giảng, cô Hằng cho biết mình thường xuyên liên hệ đến văn học.
Ví dụ: Bài 24 - Cuộc kháng chiến từ 1858 năm 1873 - Sách giáo khoa Lịch sử 8, cô Hằng đã sử dụng triệt để nội dung bài thơ Chạy giặc của Nguyễn Đình Chiểu. Nội dung bài thơ như sau:
"Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế phút sa tay
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim dáo dác bay
Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây
Hỏi trang dẹp loạn này đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này!"
Qua phần đọc diễn cảm của giáo viên, học sinh sẽ hình dung được cảnh tượng thực dân Pháp nổ súng đánh Đà Nẵng mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam (1858) đến Gia Định (Sài Gòn), tràn tới sông Bến Nghé.
Bài thơ dễ học, dễ nhớ lại ngắn gọn, xúc tích, đã tái hiện được cảnh đất nước đau thương trong những ngày đầu giặc Pháp đánh chiếm Việt Nam.
Con người, chim chóc, thiên nhiên đều trong dáng vẻ tan tác, xác xơ. Học sinh sẽ khắc sâu được biểu tượng lịch sử về sự kiện thực dân Pháp thực hiện đánh chiếm Việt Nam vào cuối thế kỉ XIX.
Hoặc khi giảng về nội dung “Những hoạt động của Nguyễn Tất Thành sau khi ra đi tìm đường cứu nước" trong Bài 30 - Phong trào yêu nước chống Pháp từ đầu thế kỉ XX đến năm 1918 - SGK Lịch sử 8, giáo viên có thể liên hệ đến văn học với bài thơ "Người đi tìm hình của nước", tác giả Chế Lan Viên.
Bởi khi được nghe, được đọc, được suy ngẫm, chúng ta lại rưng rưng xúc động về bài thơ. Mỗi vần thơ giản dị khi được cất lên như chứa đựng bao tình cảm, nỗi niềm, sự tự hào, hãnh diện, kính trọng và biết ơn công lao trời bể của nhà thơ nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung với Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong hành trình suốt cuộc đời phấn đấu vì một lý tưởng cao đẹp.
Từ ngày ra đi tìm đường cứu nước (5/6/1911), trở thành nhà hoạt động cách mạng kiên cường và bền bỉ cho đến hơi thở cuối cùng (2/9/1969), Bác đã đưa đất nước và dân tộc đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Tái hiện biểu tượng lịch sử thông qua âm nhạc
Cũng theo cô Hằng, giáo viên có thể tái hiện biểu tượng lịch sử qua âm nhạc, bởi âm nhạc với những ca từ cô đọng xúc tích, khắc họa những hình ảnh nổi bật về con người, quê hương, đất nước, ... rất dễ đi vào lòng người.
Trong nhiều tiết học, cô Hằng đã cho học sinh nghe những bài hát nổi tiếng, gắn với các sự kiện nổi bật của lịch sử dân tộc.
Ví dụ, dạy bài 18 - Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời - Sách giáo khoa Lịch sử 9, giáo viên có thể khai thác các bài hát: Chào mừng Đảng Cộng sản Việt Nam, nhạc và lời Đỗ Minh; Đảng đã cho ta một mùa xuân, sáng tác Phạm Tuyên, ... Qua đó, thấy được vai trò to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam với quá trình giải phóng dân tộc, xây dựng, phát triển đất nước.
Bài 23 - Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 và sự thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Sách giáo khoa Lịch sử 9, giáo viên sử dụng bài hát: Mười chín tháng Tám của nhạc sỹ Xuân Oanh để sống lại không khí hào hùng của những ngày Tổng khởi nghĩa.
Cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), có nhiều ca khúc mãi đi cùng năm tháng với lịch sử dân tộc Việt Nam, phải kể tới các bài: Hò kéo pháo, nhạc sỹ Hoàng Vân; Giải phóng Điện Biên, sáng tác Đỗ Nhuận; Tiến về Hà Nội, nhạc sỹ Văn Cao, .... Cuộc kháng chiến chống Mĩ (1954 - 1975), có các bài hát mang dấu ấn sâu sắc giáo viên cần khai thác như: Cô gái mở đường, nhạc sỹ Xuân Giao; Tiến về Sài Gòn, tác giả Lưu Hữu Phước, ....
Tái hiện biểu tượng lịch sử bằng tư liệu lịch sử
Với phương pháp này, cô Hằng đưa ví dụ bài 23 - Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 và sự thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Sách giáo khoa Lịch sử 9, giáo viên sử dụng phương pháp tái hiện biểu tượng lịch sử thông qua sử dụng tư liệu lịch sử.
Tài liệu được sử dụng là một đoạn trích ngắn có nội dung súc tích, đơn giản, giàu hình tượng, học sinh có thể tiếp thu một cách dễ dàng không cần giải thích gì thêm.
“Tôi đã đọc cho học sinh nghe “Lệnh tổng khởi nghĩa”; cho học sinh xem đoạn băng tư liệu Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập 2/9/1945.
Sau khi được nghe những tài liệu đó và tận mắt xem tư liệu, học sinh có những hiểu biết rõ ràng, cụ thể và tường tận hơn, không hiểu biết, nắm bắt kiến thức một cách phiến diện, mơ hồ, hời hợt về sự kiện nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, về chân dung Bác Hồ vĩ đại, về địa danh Quảng trường Ba Đình lịch sử” – Cô Hằng chia sẻ.