Giấy Tây Tạng được sản xuất vào giữa thế kỷ thứ 7 và là một sản phẩm văn hóa độc đáo của Tây Tạng. Sau khi Công chúa Văn Thành của nhà Đường vào Tây Tạng mang theo kỹ thuật làm giấy, khi đó các thợ thủ công nhà Hán và Tây Tạng đã không tìm được nguyên liệu như tre, lúa và lưới đánh cá như ở Trung nguyên.
Sau nhiều năm mầy mò, họ đã sản xuất ra loại giấy riêng độc đáo của Tây Tạng. Các loại giấy được sử dụng để lưu chép kinh thư trong Cung điện Potala, Đền Jokhang và Tu viện Sakya chủ yếu là giấy Tây Tạng.
Cho đến những năm 1950, giấy Tây Tạng vẫn được sử dụng rộng rãi ở Tây Tạng. Trong hàng ngàn năm, nó đã âm thầm ghi lại lịch sử của Tây Tạng, là chứng nhân cho tiến trình văn minh của Tây Tạng.
Năm 1901, một nhà thám hiểm và khảo cổ người Do Thái gốc Hungary, đã đến thị trấn Andier’xiang, huyện Minfeng, Tân Cương (tiếp giáp Tây Tạng), nơi ông phát hiện ra những mẩu giấy vụn Tây Tạng được viết vào cuối thế kỷ thứ 8.
Sau khi giám định, ông phát hiện loại giấy này có mùi thơm và chất liệu được làm từ một loại cỏ xạ hương đặc biệt. Loại cỏ này Tân cương không có, vì vậy nó được xác định nhập từ Tây Tạng.
Trước khi kỹ thuật sản xuất giấy được đưa vào Thổ Phồn, người dân Tây Tạng đã sử dụng vỏ cây, phiến đá và xương cừu, cũng như gỗ, tre và da cừu làm vật dụng để viết. Vậy thì, kỹ thuật làm giấy và việc sản xuất giấy Tây Tạng bắt đầu ở Thổ Phồn từ khi nào?
Theo ghi chép của "Cựu Đường thư" có đoạn đề cập: Người Thổ phồn mời thợ tới trồng tằm, làm rượu, nghiền, đập, giấy, mực”. Hiện đó được coi là ghi chép có sớm nhất về việc thuật làm giấy được đưa vào Tây Tạng.
Tubo "vì cây giống tằm và làm rượu, nghiền, đập, giấy, mực, và Xu Wei." Đây là mô tả sớm nhất về việc làm giấy có thể nhìn thấy ở Tây Tạng
Giấy Tây Tạng được làm từ sợi vỏ cây và sợi của thân cây lang độc ( một loại cỏ độc hại thuộc chi Stellera chamaejasme, chất độc mạnh mẽ như sói), cùng đá vôi và đất kiềm mặn đã qua xử lý.
Cây lang độc là một loại cỏ nhiều màu sắc, chủ yếu được tìm thấy ở trên thảo nguyên hoặc đồng cỏ. Đây là một loại cây mang tính biểu trưng, sự xuất hiện của nó báo hiệu sự thoái hóa của đồng cỏ.
Vì bản thân trong cây cỏ luôn có tính độc, bởi vậy giấy Tây Tạng làm từ cỏ trải qua thời gian dài không sợ côn trùng cắn, không mục nát, không đổi màu, kết cấu dai bền, không dễ xé, chịu nếp gấp, chống mài mòn... Chính vì lý do đó mà giấy Tây Tạng được dùng số lượng lớn để lưu chép kinh thư, hoặc các công văn của chính phủ hay để in ấn.
Công nghệ sản xuất giấy Tây Tạng có thể coi là một nghệ thuật khá tỉ mỉ. Mỗi bước trong toàn bộ quy trình sản xuất cần phải chính xác mới có thể tạo ra bản giấy Tạng đẹp. Quy trình sản xuất giấy Tây Tạng chủ yếu được chia thành bóc tách, giã đập, hấp nấu, thuộc da, rửa, nhúng, đập, trộn, cán.
Trong quá trình làm giấy, thợ phải nắm bắt chính xác từng kỹ thuật, hiểu rõ các thông số về lượng của từng thành phần, căn đúng thời gian của từng bước...
Làm thế nào để đánh giá liệu một mảnh giấy là cao cấp? Tiêu chuẩn giấy Tây Tạng tốt là: độ dày đồng đều, không có vết rỗ, không có vết bẩn và tạp chất, không có vết loang, mềm mại và trắng tinh khiết.
Trong hơn 1300 năm qua, sản xuất giấy Tây Tạng đã đi cùng với sự phát triển của nền kinh tế và văn hóa Tây Tạng, đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Từ ngày ra đời, giấy Tây Tạng đã có tác động lớn và sâu rộng đến lịch sử của nền văn minh Tây Tạng. Lịch sử của nó lâu đời hơn mọi người biết. Giá trị di sản của nó rực rỡ hơn nhiều so với những gì mọi người đã thấy.
Có một câu nói như sau: "Lịch sử của Tây Tạng được ghi lại trên giấy Tây Tạng". Những bộ kinh thư được thu thập trong các địa điểm tôn giáo như Cung điện Potala và Đền Jokhang có thể được bảo tồn sau hàng ngàn năm gió và mưa. Đó là vì chúng được tạo ra từ giấy Tây Tạng.