Trong từng thời kỳ phát triển của đất nước, bí mật nhà nước luôn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự ổn định và phát triển của đất nước.
Luật An ninh quốc gia năm 2004, Điều 14 đã xác định bảo vệ bí mật nhà nước là một trong năm nhiệm vụ quan trọng của bảo vệ an ninh quốc gia.
Ngay trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 154-SL ngày 17/11/1950 ấn định những hình phạt, trừng trị việc tiết lộ bí mật cơ quan hay công tác của Chính phủ; Sắc lệnh số 69-SL về giữ gìn bí mật quốc gia.
Hội đồng Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các văn bản: Nghị định số 69-CP ngày 14/6/1962 quy định những vấn đề thuộc phạm vi bí mật nhà nước và trách nhiệm giữ gìn bí mật nhà nước; Thông tư số 67-TTg ngày 02/6/1962 quy định về biện pháp, tổ chức giữ gìn bí mật nhà nước.
Ngày 28/10/1991, Hội đồng Nhà nước đã thông qua Pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà nước và ngày 28/12/2000 và sau gần 10 năm triển khai thực hiện, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh số 30/2000/PL-UBTVQH.
Đây là những văn bản pháp lý quan trọng để bảo vệ bí mật nhà nước, qua đó góp phần bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia trong từng giai đoạn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Yêu cầu cấp thiết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước
Trong thời điểm hiện nay, đất nước ta đang ngày càng hội nhập quốc tế sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực, bên cạnh những thời cơ, vận hội mới, chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức đan xen.
Các thế lực thù địch tiếp tục lợi dụng điều kiện mở cửa, hội nhập, sử dụng các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, nhất là Internet, thông tin, truyền thông, lợi dụng quá trình toàn cầu hóa với những đòi hỏi phải xóa bỏ mọi rào cản để dân chủ hóa, công khai, minh bạch hóa trên các mặt của đời sống xã hội, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, xuất bản… để thu thập, lấy cắp, chiếm đoạt bí mật nhà nước nhằm chống phá Việt Nam.
Do đó, bảo vệ vững chắc an ninh nội bộ, phòng chống âm mưu, hoạt động thu thập bí mật nhà nước của các thế lực thù địch và tội phạm đặt ra yêu cầu cấp thiết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước, để pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước trở thành công cụ pháp lý quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về bảo vệ bí mật nhà nước, phòng chống các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước.
Xác định rõ được tầm quan trọng của công tác này, ngày 15/11/2018, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật Bảo vệ bí mật nhà nước số 29/2018/QH14 có hiệu lực từ ngày 01/07/2020.
Luật Bảo vệ bí mật nhà nước được ban hành thay thế Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước số 30/2000/PL-UBTVQH.
Trong quá trình xây dựng Luật Bảo vệ bí mật nhà nước, một trong những tiêu chí được Đảng và Nhà nước đặt ra là bảo vệ bí mật nhà nước phải đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết nhưng không được hạn chế quyền tiếp cận thông tin.
Những cơ sở yêu cầu đối với Luật Bảo vệ bí mật nhà nước
Thực hiện chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Luật Bảo vệ bí mật nhà nước được xây dựng dựa trên cơ sở tổng kết toàn diện thực tiễn thực hiện Pháp lệnh; khắc phục những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong thực tiễn; kế thừa những quy định còn phù hợp; luật hóa một số quy định của Chính phủ đã được thực tế kiểm nghiệm phù hợp và thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật, cụ thể như sau:
Một là, Luật Bảo vệ bí mật nhà nước bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất với các văn bản pháp luật có liên quan (Hiến pháp, Luật Công an nhân dân, Luật An ninh quốc gia, Luật tiếp cận thông tin, Bộ luật Hình sự, Luật An toàn Thông tin mạng, Luật An ninh mạng...); luật hóa các quy định hợp tác quốc tế về bảo vệ BMNN để vừa bảo đảm an ninh, lợi ích quốc gia vừa đáp ứng yêu cầu giao lưu, hội nhập, mở cửa.
Hai là, Luật Bảo vệ bí mật nhà nước bảo đảm tính khả thi trên cơ sở kế thừa, phát huy những quy định còn phù hợp, đồng thời thay thế hoặc sửa đổi những quy định bất cập, thiếu khả thi trong thực tiễn.
Những quy định về khái niệm, phạm vi bí mật nhà nước được hoàn thiện, thu hẹp những thông tin thuộc phạm vi bí mật nhà nước phù hợp với yêu cầu khách quan của thực tiễn để tập trung lực lượng, phương tiện bảo vệ bí mật nhà nước, nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ bí mật nhà nước, phòng ngừa lộ, mất bí mật nhà nước.
Ba là, tăng cường hiệu quả công tác quản lý nhà nước về bảo vệ bí mật nhà nước; phân định rõ trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, tổ chức ở trung ương và địa phương trong việc đề xuất lập danh mục bí mật nhà nước; thẩm quyền cho phép cung cấp, chuyển giao bí mật nhà nước; công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn pháp luật, thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ bí mật nhà nước…
Bốn là, luật hóa các quy định có tính phòng ngừa, ngăn chặn âm mưu, phương thức, thủ đoạn thu thập bí mật nhà nước của các thế lực thù địch và bọn tội phạm để bảo vệ an toàn bí mật nhà nước, như các quy định về: quy định chặt chẽ trình tự, thủ tục việc mang bí mật nhà nước ra khỏi nơi lưu giữ; hoạt động phổ biến, nghiên cứu, sử dụng thông tin BMNN trong các hội nghị, hội thảo có yếu tố nước ngoài...
Năm là, bổ sung các hành vi bị nghiêm cấm về bảo vệ bí mật nhà nước, nhất là các hành vi liên quan đến sử dụng phương tiện, thiết bị tin học kết nối mạng máy tính, viễn thông, Internet để soạn thảo, lưu giữ, truyền nhận bí mật nhà nước, tạo cơ sở để xây dựng, áp dụng chế tài xử lý vi phạm hành chính, hình sự, nâng cao tính răn đe.
Sau hơn 1 năm triển khai thực hiện Luật Bảo vệ bí mật nhà nước và các văn bản hướng dẫn thi hành, các bộ, ban, ngành, địa phương đã tổ chức triển khai nghiêm túc và đạt được nhiều kết quả tích cực, nhận thức của cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân được nâng cao, công tác quản lý nhà nước về bảo vệ bí mật nhà nước ngày càng được củng cố chặt chẽ hơn và đi vào chiều sâu; công tác phòng chống âm mưu, hoạt động thu thập bí mật nhà nước của các thế lực thù địch và các loại tội phạm khác được triển khai có hiệu quả.
Những kết quả đó đã góp phần bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia nói chung, an ninh nội bộ nói riêng, từ đó giữ vững ổn định chính trị, phục vụ đắc lực sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội và đối ngoại của đất nước.