Chính sách phát triển người thầy/đội ngũ người thầy lúc này cần có những sáng suốt trên cả hai khía cạnh kinh tế - giáo dục. Đó là chia sẻ của GS Đặng Quốc Bảo, nguyên Giám đốc Học viện Quản lý Giáo dục.
Bốn vai trò của người thầy
GS Đặng Quốc Bảo cho rằng, kỹ thuật dạy học và công nghệ dạy học dù có nhiều thay đổi và phát triển theo chiều hướng ngày càng hiện đại, song ở nhiều nước, trong đó có nước ta, tại các nhà trường vẫn đan xen 4 kiểu dạy học và kéo theo chúng là 4 vai trò của người thầy.
Kiểu dạy học truyền thống: Trong kiểu dạy học này, thầy có vai trò người chỉ huy, trò chấp hành mệnh lệnh của thầy. Trò được yêu cầu “bắt chước” nội dung của thầy.
Kiểu dạy học gợi mở: Trong kiểu dạy học này, thầy có vai trò người thiết kế, trò thi công ý tưởng của thầy. Trò được yêu cầu “tái hiện” nội dung của tri thức.
Kiểu dạy học tích cực: Trong kiểu dạy học này, thầy có vai trò người dẫn dắt, trò lĩnh hội sự truyền đạt của thầy. Trò được yêu cầu “tái tạo” nội dung tri thức.
Kiểu dạy học kiến tạo: Trong kiểu dạy học này, thầy có vai trò người cố vấn, người truyền cảm hứng, trò khám phá phát hiện được hiện thực khách quan mà thầy - trò cùng quan tâm. Trò thực hiện sáng tạo nội dung của tri thức.
Người thầy tận tâm là một nhà quản lý – quản lý không có dấu đỏ, có kỹ năng, phong cách dạy học để học sinh nào cũng bắt kịp với “yêu cầu dạy học” đặt ra.
Người thầy như GS Nguyễn Cảnh Toàn đã chỉ ra: Phải dạy học sinh theo tinh thần phân hóa qua 4 sức: Sức chức, sức hút, sức chấm, sức chế biến. Lao động sư phạm của người thầy rất nặng nhọc.
Không thể dùng tư duy kinh tế thông thường trong việc xác định sự đãi ngộ cho người thầy/ đội ngũ người thầy.
Giáo dục nhà trường là động lực cho kinh tế
Theo GS Đặng Quốc Bảo, người thầy/đội ngũ người thầy đang vận động trong “bối cảnh kép”: Vừa phải thực hiện các nhiệm vụ của đổi mới GD theo tinh thần Nghị quyết 29/TW khóa 10, vừa phải chủ động thích ứng với động thái của CMCN 4.0.
Họ có nhiệm vụ thực hiện tinh thần dạy học kiến tạo, biết từ bỏ sư phạm quyền uy tiến tới sư phạm dân chủ, hợp tác, trang bị cho người học sự phát triển toàn diện năng lực phẩm chất lại phải đón đầu với các tiến bộ của công nghệ dạy học, “kỹ thuật dạy học qua e-learning”, “trường học kết nối”, “STEM”…
Cuộc sống đòi hỏi người thầy phải tận tâm hơn song lại phải tốc độ nhiều hơn.
Kinh tế đang diễn ra động thái “cá nhanh nuốt cá chậm”. Giáo dục nhà trường là động lực cho kinh tế. Người thầy, đội ngũ người thầy nếu không biết cách dạy học/giáo dục hiệu quả thì đẩy dân tộc vào tình cảnh “trâu chậm uống nước đục”.
Chính sách phát triển người thầy/đội ngũ người thầy lúc này cần có những sáng suốt trên cả hai khía cạnh kinh tế - giáo dục.
Ba vấn đề thực tiễn phát triển người thầy trong bối cảnh mới
GS Đặng Quốc Bảo chỉ ra ba vấn đề thực tiễn của phát triển đội ngũ người thầy:
Thứ nhất, phát triển được lực lượng tinh hoa của đội ngũ người thầy. Ở địa phương nào cũng đang có những người thầy tận tâm, tài hoa. Họ lấy minh triết “Tất cả vì học sinh thân yêu” làm phương châm hành động.
Cần liên kết họ thành lực lượng là nhân lực kỹ thuật cao của ngành có chính sách và hình thức tôn vinh xứng đáng để bảo vệ nguồn gen cao quý của ngành.
Bên cạnh sự tôn vinh người ưu tú cần có cuộc vận động để người không có tố chất làm thầy đừng chuyển đến các vị trí không thích hợp với năng lực, phẩm chất của họ.
Thứ hai, đào tạo lại đội ngũ người thầy, lấy trọng tâm là giáo dục STEM. Cùng với các nội dung bồi dưỡng truyền thống, cần đặc biệt chú ý đến bồi dưỡng STEM cho người thầy/đội ngũ người thầy.
Cần thiết kế được STEM với các trình độ từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, và bồi dưỡng STEM cho đội ngũ GV đang có. Ai không thích ứng được yêu cầu bồi dưỡng này cần có sự vận động để họ tự thanh lọc.
Thứ ba, kiến tạo được phương án đào tạo người thầy. “Vượt gộp” là từ đề xuất của GS Phan Ngọc; Theo ông: Vượt gộp không phải là chạy theo cái mới, bỏ qua cái cũ, cũng không phải như khi bám lấy cái cũ mà coi thường cái mới.
Từng có 3 mô hình đào tạo người thầy ở nước ta: Mô hình truyền thống: Đào tạo người thầy mà các trường ĐHSP, CĐSP đã tiến hành nhiều năm.
Mô hình Nguyễn Cảnh Toàn: Đào tạo người thầy theo phương thức vừa học vừa làm. Mô hình này triển khai tại Trường ĐHSP những năm 80 của thế kỷ trước.
Mô hình Nguyễn Thị Mỹ Lộc: đào tạo người thầy vừa có năng lực làm thầy, vừa có năng lực nghiên cứu khoa học cơ bản. Mô hình này đang triển khai tại Trường ĐH Giáo dục (ĐHQGHN), sản phẩm của mô hình này có nhiều hứa hẹn, tuy nhiên khi tuyển dụng, sản phẩm lại rơi vào quỹ đạo của luật lệ hiện hành nên thiếu động lực cho sự mở rộng và phát triển.
Theo GS Đặng Quốc Bảo, ngày nay với sự tiến bộ của khoa học công nghệ thông tin, công nghệ dạy học, với sự ưu việt của đào tạo tín chỉ có thể vượt gộp các mô hình đã có A + B + C với sự liên kết, hợp tác giữa các trường THPT, trường ĐH đào tạo người thầy qua phương thức “học qua hành”.
Trong tác phẩm “Giáo dục trong thời đại tri thức”, John Vũ khắc họa tính ưu việt của phương thức “học qua hành”. Đây là sự tổ hợp hai môi trường học tập: Trường học và thực tiễn. Sinh viên tham dự khóa học trong 2 ngày/tuần và dành 3 ngày khác trong tuần để làm việc áp dụng điều đã học vào cuộc sống.
Đào tạo GV hiện nay có thể tham khảo mô hình đào tạo bác sĩ nội trú. Người học sẽ học 6 năm để có năng lực dạy học, trải nghiệm thực tiễn, và nghiên cứu khoa học. Khác với bác sĩ nội trú, 2 năm cuối cùng làm việc tại bệnh viện, người đủ điều kiện tuyển vào hệ này thì ngay năm đầu đã được cầm phấn. Họ là “trợ giảng” cho các thầy dạy giỏi ở trường phổ thông, thực hiện phụ đạo và khi cần thiết có thể để họ đứng lớp.
Kinh nghiệm cho thấy người giỏi trong lớp có thể dạy người khác vì “học thầy không tày học bạn”. Trường phổ thông chọn những người có năng khiếu sư phạm, có ý chí, và có nguyện vọng làm thầy; cần ưu tiên tuyển chọn những em mà gia đình có truyền thống làm thầy. GS Đặng Quốc Bảo