Báo GD&TĐ đã có cuộc trao đổi với PGS.TS Bùi Thị An, nguyên đại biểu Quốc hội khóa XIII về những thành tựu cũng như thách thức của Việt Nam trong giai đoạn phát triển mới.
Hành trình về hướng mặt trời
- Nhìn lại chặng đường 80 năm hình thành đất nước và 40 năm tiến hành công cuộc cải cách, bà có đánh giá thế nào về những thay đổi của nền kinh tế Việt Nam đến thời điểm hiện tại?
- Thời điểm mới thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào năm 1945, nền kinh tế Việt Nam vô cùng khó khăn, kiệt quệ. Trải qua 80 năm bền bỉ vượt mọi khó khăn, thách thức, trong đó có hàng chục năm chiến tranh, ngày nay, Việt Nam đã vươn lên thành nền kinh tế có quy mô GDP xếp thứ tư Đông Nam Á, đứng thứ 33 thế giới và đang sẵn sàng bước vào giai đoạn phát triển mới, hiện thực hóa quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta về việc xây dựng Việt Nam trở thành một nước phát triển, thu nhập cao.
Trước hết, về mặt hình thức, có thể thấy nền kinh tế đã “thay da đổi thịt” gần như hoàn toàn. Về mặt kinh tế, chúng ta đã có một sự phát triển vượt bậc.
Hãy nhớ lại hình ảnh đói kém của năm 1945. So với bây giờ, đó là một sự khác biệt cả về chất và lượng. Chúng ta đi lên từ một nền nông nghiệp lạc hậu, lúa gạo không đủ ăn, thậm chí có bỏ mạng vì nạn đói.
Tuy nhiên, hiện tại chúng ta đã đạt được sự phát triển ngoạn mục trên tất cả các lĩnh vực. Đặc biệt trong nông nghiệp, chúng ta không chỉ đủ ăn, dư ăn, mà còn xuất khẩu lúa gạo đứng thứ nhất, thứ hai trên thế giới. Nhiều loại nông sản khác cũng xuất khẩu rất nhiều. Sản phẩm của Việt Nam có mặt ở rất nhiều thị trường, kể cả những thị trường khó tính. Điều này là minh chứng cho sự phát triển ngoạn mục của nông nghiệp Việt Nam.
Sự tăng trưởng này còn thể hiện tính bền vững, không phải “hôm nay đói, ngày mai no”. Nó có một nền tảng vững chắc và cứ năm sau lại tốt hơn năm trước. Sự phát triển của kinh tế hiện nay rất đa dạng. Chúng ta đã có đầy đủ các lĩnh vực như công nghiệp, nông nghiệp, có thể sánh ngang với các nước trong khu vực.
Bên cạnh đó, về mặt hạ tầng xã hội, sự thay đổi cũng khó có thể tưởng tượng được. Ngày xưa đường sá, giao thông từ liên thôn, liên xóm đều tắc nghẽn. Giờ đây, tất cả đã được liên thông, từ quốc lộ liên tỉnh đến quốc lộ cả nước, quốc lộ vùng sâu, vùng xa, giao thông đều phát triển. Đây là một trong những cơ sở để kinh tế phát triển. Các hạ tầng xã hội khác như giáo dục, y tế đều được phổ cập đến tận các vùng miền. Sự tăng trưởng này đang dần thể hiện tính bền vững.

- Việt Nam đã thành công trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng vẫn còn phụ thuộc khá nhiều vào khu vực FDI. Theo bà, vấn đề nào sẽ là nguy cơ nếu chúng ta không tái cơ cấu mạnh mẽ?
- Dù đạt được những thành tựu vượt bậc, hành trình phía trước của Việt Nam cũng không hề bằng phẳng. Mô hình tăng trưởng hiện tại đang bộc lộ nhiều hạn chế và đối mặt với những thách thức từ bối cảnh toàn cầu đầy biến động.
Trong giai đoạn khó khăn, thiếu vốn và công nghệ, việc huy động FDI là đúng đắn. Tuy nhiên, nếu không cải thiện hạ tầng logistics, nâng cao năng lực doanh nghiệp và tăng tỷ lệ nội địa hóa, Việt Nam có nguy cơ chỉ trở thành điểm lắp ráp đơn thuần. Đặc biệt là trong bối cảnh cạnh tranh công nghệ giữa Mỹ - Trung.
Cuộc đua này buộc các quốc gia như Việt Nam phải có chiến lược “cân bằng linh hoạt” và nâng cao khả năng tự chủ công nghệ để không rơi vào “vòng xoáy phụ thuộc”, những yếu tố này tạo ra cả cơ hội và rủi ro. Trong đó, cơ hội là thu hút đầu tư chiến lược vào các lĩnh vực công nghệ cao. Rủi ro là tụt hậu và mắc kẹt trong bẫy thu nhập trung bình nếu không quyết liệt đổi mới mô hình tăng trưởng.
Do đó, trong chiến lược mới, mục tiêu của Đảng, Nhà nước là chúng ta phải làm chủ sản xuất, làm chủ công nghệ. Đây là mục tiêu chiến lược rất cao đến năm 2030 và tầm nhìn xa hơn. Các nghị quyết được ban hành trong thời gian qua cũng thể hiện rất rõ mục tiêu này.
Chúng ta đã rút ra bài học kinh nghiệm từ thực tiễn và xác định mục tiêu rõ ràng. Chúng ta phải làm chủ đất nước mình, làm chủ công nghệ, làm chủ khoa học thì mới phát triển bền vững. Khi còn phụ thuộc thì không thể phát triển bền vững được.
Đây là một sự thay đổi về tư duy, định hướng toàn bộ hướng đi của chúng ta. Thay đổi từ làm gia công sang làm chủ khoa học công nghệ, làm chủ sản xuất sẽ giúp đất nước phát triển bền vững và có những bước tăng trưởng chất lượng hơn nhiều.

Đổi mới tư duy - đột phá thể chế
- Bộ Chính trị đã ban hành 4 Nghị quyết “trụ cột” từ thể chế, khoa học công nghệ đến kinh tế tư nhân và hội nhập quốc tế. Bà đánh giá thế nào về nhiệm vụ và vai trò của 4 Nghị quyết trong việc tạo sự kết gắn giữa “nội lực vững - ngoại lực mạnh” cho phát triển đất nước?
- Sự phát triển của đất nước luôn gắn liền với những xu thế, biến chuyển của thời đại. Chúng ta đang sống trong giai đoạn thế giới có những thay đổi mang tính thời đại. Đây cũng là thời kỳ chiến lược quan trọng của cách mạng Việt Nam để bước vào kỷ nguyên phát triển hùng mạnh của dân tộc, đạt mục tiêu 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, tạo tiền đề vững chắc đạt mục tiêu 100 năm thành lập nước.
Trong bối cảnh đó, “bộ tứ trụ cột” nghị quyết là động lực để đưa Việt Nam “cất cánh” trong giai đoạn phát triển mới. Các Nghị quyết 57 về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Nghị quyết 66 về đổi mới công tác xây dựng và thực thi pháp luật, Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân và Nghị quyết 59 về hội nhập quốc tế trong tình hình mới là những quyết sách chiến lược góp phần kiến tạo cơ hội, điều kiện thuận lợi cho mục tiêu phát triển mạnh mẽ, bứt phá của đất nước.
Trong đó, Nghị quyết số 68 đánh dấu bước ngoặt về đổi mới tư duy, một đột phá khẳng định vai trò trung tâm của khu vực kinh tế tư nhân như một động lực quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Đây không còn là sự khẳng định mang tính khuyến khích, mà là một lựa chọn chiến lược, thể hiện tư duy phát triển nhất quán, minh bạch và hiện đại.
Việc chính thức đặt kinh tế tư nhân vào vị trí “trụ cột” sẽ tạo ra không gian phát triển lớn hơn cho khu vực này, đồng thời khơi thông các nguồn lực trong xã hội.
Đi cùng với 4 Nghị quyết “trụ cột”, việc sắp xếp đơn vị hành chính theo Đề án Tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp cũng là một chiến lược quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, góp phần tạo nền tảng, tiền đề để Việt Nam bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc với niềm tin, nền tảng vững chắc.
Mô hình chính quyền địa phương hai cấp giúp đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm các chi phí thực hiện thủ tục hành chính, kết nối, xây dựng hạ tầng đồng bộ, hiện đại và nâng cao khả năng tiếp cận thị trường của nhà đầu tư nước ngoài.

Luôn sẵn sàng tâm thế đổi mới
- Bà có đánh giá như thế nào về bức tranh kinh tế Việt Nam trong 20 - 30 năm tới? Để nền kinh tế đất nước ngày một phát triển vượt bậc, chúng ta cần chuẩn bị những gì để thực hiện điều này?
- Giai đoạn vừa qua, Việt Nam đã trải qua những lúc vô cùng khó khăn, từ khủng hoảng kinh tế thế giới đến đại dịch Covid-19 và thiên tai. Tuy nhiên, chúng ta đã vượt qua được. Hiện tại, Nhà nước đã có những dự báo và chuẩn bị phương án để hạn chế tối đa những thiệt hại từ thiên tai.
Mục tiêu lớn được đặt ra là Việt Nam phải trở thành một nước công nghiệp hiện đại, một nước phát triển. Khi đã đạt được các tiêu chí của một nước phát triển, chất lượng cuộc sống của người dân sẽ được nâng cao, thu nhập đầu người sẽ tăng lên, hạ tầng giao thông và xã hội sẽ hoàn thiện hơn.
Nếu chúng ta thực hiện tốt các mục tiêu này theo lộ trình cụ thể, thế hệ trẻ sẽ được hưởng thụ những thành quả của sự phát triển kinh tế. Đặc biệt, với cuộc cách mạng 4.0 và chuyển đổi số, năng suất lao động sẽ tăng đột biến.
Hơn nữa, Việt Nam đang đặc biệt chú ý đến phát triển bền vững với ba trụ cột: Kinh tế tăng trưởng; An sinh xã hội đảm bảo; Môi trường trong sạch. Thế hệ trẻ sẽ được sống trong một môi trường trong sạch và được hưởng chất lượng cuộc sống ở tầm cao của các nước phát triển. Mặc dù còn nhiều thách thức, nhưng với nỗ lực và sự đoàn kết, chúng ta sẽ đạt được mục tiêu.
Chặng đường gần 80 năm đổi mới đã chứng kiến sự trỗi dậy ngoạn mục của kinh tế Việt Nam. Từ một nền kinh tế lạc hậu, bị tàn phá bởi chiến tranh, Việt Nam đã vươn mình trở thành một điểm sáng tăng trưởng của thế giới.
“Tuy nhiên, kỳ tích của quá khứ không phải là “tấm vé” đảm bảo cho thành công trong tương lai. Hành trình đến năm 2045 với khát vọng trở thành một quốc gia phát triển, thu nhập cao đòi hỏi một cuộc “Đổi mới lần thứ hai” trong tư duy và hành động với trọng tâm là đổi mới mô hình tăng trưởng dựa trên khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và phát huy nội lực dân tộc”.