Dưới đây, bác sĩ Trần Trung Đạo, Khoa A2, Bệnh viện Phụ sản Hà Nội sẽ lý giải 15 lời đồn khi mang thai để giúp các mẹ bầu hiểu hơn và có cách chăm sóc thai kỳ được tốt nhất.
1. Ăn nhiều cho cả mẹ lẫn con
Cái gì nhiều quá cũng không tốt. Khi có thai nhu cầu dinh dưỡng cần phải tăng thêm khoảng 300 Kcal nhưng không có nghĩa mọi người phải ăn nhiều.
Mẹ bầu nên bổ sung dinh dưỡng đa dạng, ăn tăng thịt, trứng, cá, sữa, rau củ quả; giảm lượng tinh bột và đường. Tăng cân lý tưởng nhất là khoảng 10-12kg trong thai kỳ.
Việc ăn nhiều quá gây tăng cân không kiểm soát có thể làm tăng nguy cơ bệnh tiểu đường thai kỳ, tiền sản giật và khó khăn khi đẻ.
Tăng cân lý tưởng nhất là khoảng 10-12kg trong thai kỳ. (Ảnh minh họa).
2. Uống nước mía, nước dừa sinh con sạch sẽ, trắng hồng
Con da trắng hay da đen là do bộ gen của em bé quyết định, không phải do uống nước mía, nước dừa.
Nước mía, nước dừa có hàm lượng đường cao, nhiều vitamin nên các chuyên gia khuyên mẹ bầu chỉ dùng 1-2 cốc/tuần là đủ.
Việc uống quá liều lượng cho phép sẽ khiến bà bầu đầy bụng, khó tiêu, tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường thai kỳ, ảnh hưởng nhiều đến sức khoẻ của mẹ và bé.
3. Bánh rau canxi hóa làm giảm hấp thu dinh dưỡng dẫn đến thai chậm lớn, suy dinh dưỡng
Rau canxi hoá là hiện tượng sinh lý bình thường cho thấy sự phát triển của thai nhi. Tuổi thai càng lớn thì bánh rau càng canxi hoá nhiều.
Mức độ canxi hoá cũng gián tiếp đánh giá mức độ trưởng thành của phổi thai. Có thể nói, bánh rau canxi tốt, phổi thai tốt, ít nguy cơ suy hô hấp sau sinh.
Bánh rau canxi không phải do thừa canxi. Trung bình nhu cầu canxi khoảng 1200mg/ngày nên mẹ bầu vẫn cần bổ sung canxi đầy đủ từ thực phẩm hằng ngày và canxi uống.
4. Nhiều ối phải uống ít nước, ít ối phải uống nhiều nước
Nước uống về cơ bản không liên quan đến ối. Nhu cầu nước uống khi có thai khoảng 3 lít/ngày. Việc bà bầu uống đủ lượng nước giúp cơ thể đủ nước, giảm tình trạng ốm nghén, mệt mỏi; ngăn ngừa tình trạng nhiễm trùng tiết niệu và táo bón.
Còn ối nhiều hay ít do nhiều nguyên nhân, bà bầu cần được khám thai định kỳ để bác sĩ tư vấn. Việc uống nước râu ngô để giảm nước ối như lời đồn sẽ không có tác dụng gì, uống nhiều quá sẽ dẫn tới tiểu nhiều và rối loạn điện giải.
5. Bụng tròn “giống mẹ”, bụng nhọn “giống bố”
Nhiều người tin tưởng tuyệt đối vào dấu hiệu này nhưng không phải vậy.
Những mẹ bụng tròn do cơ bụng vẫn còn đủ chắc chắn, bụng thường gọn gàng còn những mẹ bầu bụng nhọn nhô ra phía trước do cơ bụng “kém” hoặc khoang bụng không đủ rộng để chứa tử cung nên tử cung phải nhô ra phía trước.
Bụng tròn do cơ bụng còn đủ săn chắc. (Ảnh minh họa).
6. Thai “nấc cụt” là thai đang có vấn đề
Rất nhiều người sẽ bất ngờ với thông tin này, đó là “thai không có nấc”. Các mẹ sẽ cảm nhận thai “nấc cụt” rõ khi nằm ngừa, một số người ngồi cũng cảm nhận rõ nhưng "nấc cụt" không phải là thai bị nấc mà là thai đang to dần khiến tử cung to chèn ép lên động mạch chủ dưới.
Khi đó động mạch chủ dưới đập theo nhịp tim khiến tử cung nẩy theo nhịp mạch chủ bụng.
Theo đó, "nấc cụt" chỉ là nhịp nẩy của động mạch chủ bụng truyền gián tiếp lên thành bụng, chứ thai không có vấn đề gì.
7. Đi bộ, uống nước tía tô, nước dứa giúp dễ đẻ
Đi bộ nhiều không giúp việc sinh nở dễ dàng hơn như lời đồn. Đi bộ là phương pháp thể dục rất phù hợp cho các sản phụ, giúp đốt cháy lược calories dư thường, giảm nguy cơ béo phì và bệnh tiểu đường thai kỳ.
Việc đi bộ nhiều trong lúc chờ chuyển dạ không giúp dễ đẻ hơn mà còn làm cho sản phụ mất sức thêm. Lúc này việc nằm nghỉ là cần thiết nhất cho sản phụ.
Còn với nước dứa và nước tía tô cũng không có tác dụng cho việc dễ đẻ hơn.
8. Tiêm phòng rubella vô tình phát hiện có thai phải bỏ thai
Khi tiêm phòng, vaccine rubella và virus đã được giảm độc lực (khả năng gây độc đã được giảm rất nhiều lần). Người ta khuyên sau khi tiêm vaccine rubella 3 tháng sau mới được có thai lại. Tuy nhiên nguy cơ lý thuyết tối đa gây ra dị tật bẩm sinh sau khi tiêm vắc xin rubella cho phụ nữ mang thai chỉ là 0,2% (2/1000).
Thực tế có rất nhiều bà mẹ có tiêm phòng rubella mà không biết mình có thai vẫn sinh con khoẻ mạnh bình thường. Vì vậy, các mẹ có thể yên tâm theo dõi thai định kỳ. Nhiều mẹ lo lắng quá mức làm quá nhiều xét nghiệm vừa không cần thiết lại vừa tốn tiền.
9. Có thai phải “kiêng” quan hệ tình dục
Đây có lẽ là lời đổn phổ biến nhất bởi đa số cho rằng việc quan hệ sẽ không tốt cho bé. Tuy nhiên, mẹ bầu sẽ phải “kiêng” khi đang có triệu chứng của doạ sảy, doạ sinh non, rau tiền đạo, nhiễm khuẩn âm đạo,...
Việc quan hệ nếu không có “chống chỉ định” như trên không những không hại mà còn giúp chồng vui vẻ, sản phụ thoải mái, tinh thần thăng hoa. Các mẹ bầu nên lưu ý nhẹ nhàng, tránh tư thế khó và cần thiết dùng bao cao su.
10. Nằm trái sẽ tốt cho thai
Mang thai tử cung lệch về bên phải nhiều hơn, việc nằm nghiêng trái giúp tử cung bớt xoắn vặn, bớt chèn ép vào tĩnh mạch chủ dưới, giúp máu về tim tốt hơn, nhờ đó thai cũng được cung cấp máu tốt hơn.
Đó là lý thuyết còn về thực tế “nằm nghiên trái” được áp dụng trong chuyển dạ khi thai có vấn đề về oxy. Với thai chưa chuyển dạ khuyến cáo các mẹ nên nằm bên nào cảm thấy thoải mái, dễ chịu nhất bởi “Mẹ khoẻ thì con mới khoẻ được”.
11. Siêu âm biết được ối phân su, ối trong, ối đục, ối đồng nhất, không đồng nhất
Siêu âm sẽ không biết được ối phân su, ối trong, ối đục, ối đồng nhất hay không đồng nhất. Siêu âm thường đánh giá ối nhiều, ối ít hay ối bình thường, một số trường hợp có thể thấy bất thường khác như máu hoặc cặn ối.
Ối phân su (ối xanh) chỉ biết được khi soi ối bằng dụng cụ chuyên biệt qua cổ tử cung và thường áp dụng với thai quá ngày sinh, thai có dấu hiệu suy thai hoặc khi ối vỡ có thể quan sát bằng mắt thường.
Ối trong, ối đục hay đồng nhất không có ý nghĩa gì nên các mẹ không nên băn khoăn.
12. Đầu to với lưỡng đỉnh lớn hơn 98mm hoặc ngôi ngược phải mổ lấy thai
Có lẽ khá nhiều người nghĩ thai đầu to với lưỡng đỉnh lớn hơn 98mm hoặc ngôi ngược phải mổ lấy thai nhưng thực tế không phải vậy.
- Với thai đầu to (lưỡng đỉnh lớn hơn 98mm) rất nhiều người sinh thường được; đầu to và khung chậu rộng rãi thậm chí còn dễ đẻ hơn so với bình thường.
- Ngôi ngược được hiểu nôm na là đầu em bé ở trên rốn và mông em bé ở phía dưới rốn; ngôi ngược dưới 3kg với con so và dưới 3,2kg với con rạ vẫn có thể đẻ thường được.
Việc đỡ sinh ngôi ngược không quá khó tuy nhiên trong quá trình theo dõi có nhiều nguy cơ hơn 1 chút nên nếu sản phụ nào có nhu cầu đẻ thường ngôi ngược nên liên hệ với bác sĩ của mình để được khám và tư vấn cụ thể.
13. Dây rốn cuốn cổ phải mổ lấy thai
Dây rốn cuốn cổ hay dân gian còn gọi với cái tên mỹ miều “tràng hoa cuốn cổ” thường gặp trong thai kỳ và biết được khi siêu âm. Thai bị dây rốn cuốn cổ đơn giản vì trong bụng mẹ, thai "nghịch ngợm" quá. Việc dây rốn cuốn cổ này cũng không ảnh hưởng gì đến bé.
Nhiều mẹ lo lắng không cần thiết bởi dây rốn cuốn cổ 1, 2 hay 3 vòng vẫn sinh thường được và thực tế bác sĩ đã đỡ sinh thường rất nhiều trường hợp như vậy.
Việc dây rốn cuốn cổ này cũng không ảnh hưởng gì đến bé nên các mẹ không nên quá lo lắng.
14. “Dịch màng nuôi” là hiện tượng đang doạ sảy
Thực tế có rất nhiều nơi dùng khái niệm “dịch màng nuôi” để mô tả quá trình doạ sảy của thai nhỏ dưới 12 tuần. Về y học không có khái niệm “dịch màng nuôi” hay “màng nuôi”.
Nhiều sản phụ thường than phiền về vấn đề này nhưng khi được kiểm tra lại đa số là hiện tượng dịch sinh lý bình thường (dịch dưới túi thai).
Nếu không đau bụng, không ra máu âm đạo và siêu âm có 1 chút dịch dưới túi thai thì sản phụ không cần lo lắng nhiều, chỉ cần khám thai định kỳ.
Việc siêu âm, tư vấn không đúng cùng những lời đồn thổi dẫn tới việc dùng thuốc vô số loại vừa không cần thiết, vừa tốn tiền lại gây lo lắng cho sản phụ.
15. Siêu âm bất kỳ thời điểm nào cũng biết được tuổi thai và dự kiến sinh
Ngày dự sinh là ngày ước đoán thai được 40 tuần. Tại sao lại chọn mốc 40 tuần? Vì sau 40 tuần các bất trắc với thai tăng lên nhiều lần. Do đó, ngày dự sinh rất quan trọng để bác sĩ can thiệp cho em bé sinh đúng thời điểm cần thiết.
- Tuổi thai và ngày dự sinh bản chất là 1 khái niệm, có tuổi thai sẽ suy được ngày dự sinh và ngược lại. Thường sẽ lấy mốc siêu âm 12 tuần để tính ngày dự sinh, siêu âm ở các mốc khác, tuổi thai sẽ bị lệch và thai càng lớn tuổi thai càng lệch nhiều.
- Có nhiều cách tính ngày dự sinh nhưng thông thường dựa vào: ngày đầu của chu kỳ kinh cuối cùng (ngày đầu tiên hành kinh), siêu âm 12 tuần, ngày chuyển phôi (với thai IVF).