Đức: Triển khai số hóa vào các quy trình phát triển trường học
Cô Nguyễn Minh Diễm Quỳnh cho biết, ở Đức, một trong những thách thức cấp bách nhất đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp là ảnh hưởng của số hóa đến địa điểm học tập lý thuyết và thực tiễn.
Số hóa đòi hỏi phải tạo điều kiện thuận lợi cho các năng lực mới. Mặt khác, các công cụ và phương pháp giáo dục kỹ thuật số mới sẽ xuất hiện.
Năng lực kỹ thuật số mới bao gồm quan điểm bền vững về số hóa và khả năng sử dụng các công cụ và phương pháp kỹ thuật số để giải quyết các vấn đề trong cuộc sống hằng ngày và nơi làm việc.
Năng lực tại nơi làm việc có tầm quan trọng đặc biệt đối với hệ thống đào tạo nghề cũng như các quy trình và công cụ kỹ thuật số liên tục thay đổi nơi làm việc. Các công cụ hỗ trợ năng lực này có thể là máy tính, máy tính bảng, điện thoại thông minh, hoặc bằng cách tương tác.
Mô hình lớp học đảo ngược và các phương pháp học tập kết hợp là những ví dụ về phương pháp giảng dạy kết hợp phương tiện kỹ thuật số.
Cả hai công cụ và phương pháp đều có thể được sử dụng để trình bày các hình thức truyền thống mới; chẳng hạn như video giáo dục, trò chơi.
Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp có thể đáp ứng thách thức của một thế giới đang thay đổi thông qua việc triển khai số hóa vào các quy trình phát triển trường học. Chẳng hạn như các công cụ kỹ thuật số để quản lý trường học, cơ sở hạ tầng công nghệ hiện đại hoặc các phương pháp giảng dạy khác nhau kết hợp với đào tạo giáo viên liên tục.
Ảnh minh họa/ITN. |
Nga: Nhiều công nghệ, phương pháp được sử dụng
Chính phủ Liên bang Nga cũng như Chính phủ các quốc gia khác, thực hiện các chiến lược của UNESCO trong lĩnh vực học tập suốt đời, sử dụng nhiều công nghệ và phương pháp khác nhau.
Chẳng hạn như tạo các trang internet có thông tin về các cơ hội giáo dục ở các đơn vị hành chính khác nhau; đăng thông tin về giáo dục toàn thời gian, bán thời gian, từ xa bằng các ngôn ngữ khác nhau mà người nộp đơn trong lãnh thổ này có nhu cầu; cung cấp dịch vụ giáo dục nâng cao tại các trung tâm và dịch vụ việc làm; khuyến khích quá trình đào tạo; sử dụng các nguồn ngân sách thúc đẩy phát triển đào tạo miễn phí tại nơi làm việc; cung cấp tài trợ giáo dục đại học cho người lớn.
Tất cả điều này được kết nối và thực hiện để đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động, yêu cầu của doanh nghiệp về các chuyên gia có kỹ năng liên ngành.
Các cơ sở giáo dục trung cấp nghề hiện đang được tích hợp vào cấu trúc của các trường đại học. Qua đó, đảm bảo quyền tự quyết về nghề nghiệp trong giai đoạn đi học và góp phần tạo ra nhu cầu học tập suốt đời trong tương lai.
Yêu cầu mới đối với lao động trẻ là không ngừng nâng cao kiến thức, kỹ năng để có thể cạnh tranh trên thị trường lao động cho công chúng, thay thế các kỹ năng cứng chuyên nghiệp thuần túy hiện nay.
Khả năng tiếp cận thông tin học tập suốt đời cũng là vấn đề được chú trọng. Khi đó, tất cả thông tin về hoạt động của cơ sở giáo dục đều có chuyên trang web chính thức của trường, bao gồm các trang giúp thu hút ứng viên và đảm bảo học tập suốt đời cho mọi ứng viên để thu hút sinh viên nước ngoài và học viên trưởng thành, các trang bằng tiếng Anh, tiếng Mông Cổ và tiếng Trung Quốc.
Giờ học tại Trường CĐ kỹ thuật công nghiệp Việt Nam – Hàn Quốc. Ảnh: website nhà trường. |
Còn nhiều rào cản
Cô Nguyễn Minh Diễm Quỳnh nhận định: Nhìn chung, trong thập kỷ qua, hầu như tất cả các quốc gia trên thế giới đều quan tâm đặc biệt đến việc hình thành sự lựa chọn nghề nghiệp đáp ứng nhu cầu lao động có tay nghề cao trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ.
Cùng với đó, sự lựa chọn của nhân viên ngày càng dựa trên các năng lực như tính sáng tạo, tính linh hoạt, khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi và ứng phó với những thách thức liên quan, đưa ra các quyết định phức tạp dựa trên phân tích tình huống và sẵn sàng nâng cao kiến thức, kỹ năng và khả năng của họ một cách có hệ thống, thu được trong quá trình giáo dục.
Vì vậy, học tập suốt đời trở thành một công cụ có giá trị để kích thích công nghiệp, nông nghiệp và phát triển toàn bộ cộng đồng doanh nghiệp.
Ở Indonesia, công nghệ số rất quan trọng trong nền văn minh hiện đại ngày nay với vai trò là nghề truyền thống, giải trí, thông tin và giáo dục. Tuy nhiên, do sự phân chia kỹ thuật số, không phải ai cũng có cơ hội tiếp cận công nghệ như nhau.
Giáo dục nghề nghiệp là một loại hình giáo dục chuẩn bị cho sinh viên làm việc hoặc tự kinh doanh có những kỹ năng cần thiết, chuẩn bị cho các cá nhân làm việc như một kỹ thuật viên hoặc đảm nhận công việc trong một nghề thủ công lành nghề.
Giáo dục có lĩnh vực chuyên môn từ công nghệ và kỹ thuật đến các ngành công nghiệp sáng tạo, giáo viên có vai trò quan trọng trong việc định hình cách tích hợp công nghệ trong quá trình giảng dạy.
Với giáo dục nghề nghiệp, rào cản đối với công nghệ số mà giáo viên phải đối mặt là thiếu tự tin, năng lực khả năng tiếp cận tài nguyên công nghệ kỹ thuật số.
Tại Việt Nam, hoạt động xây dựng, cập nhật học liệu số, xây dựng bài giảng điện tử và khai thác các nguồn học liệu tại cơ sở giáo dục nghề nghiệp còn mang tính tự phát, chưa trở thành hệ thống và khó kiểm soát chất lượng.
Cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng giáo trình và bài giảng chưa được số hóa, chưa có hệ thống dữ liệu dùng chung. Nguồn tài chính khó khăn, cơ sở vật chất, hạ tầng không cho phép. Khu vực miền núi hay vùng sâu, vùng xa, hạ tầng mạng và trang thiết bị công nghệ thông tin chưa được đảm bảo, gây ảnh hưởng lớn đến công tác quản lý giáo dục trong dạy và học.
Ngoài ra, tình trạng học liệu số tràn lan, thiếu tính xác thực và không được kiểm soát chặt chẽ về chất lượng cũng như nội dung, sự không đồng nhất về kiến thức và tạo nên nhiều hệ lụy khác như tiêu hao tài chính, tốn kém thời gian.