Đọc trong sử Việt, chúng ta đều nhớ sau cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ 3 thắng lợi (đầu năm 1288), vua tôi nhà Trần làm lễ dâng tù binh mừng thắng trận ở Chiêu Lăng (lăng vua Trần Thái Tông ở Hưng Hà, Thái Bình ngày nay). Vua Trần Nhân Tông đã cảm động làm hai câu thơ:
Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,
Sơn hà thiên cổ điện kim âu.
Dịch nghĩa là:
Xã tắc hai phen chồn ngựa đá,
Non sông nghìn thuở vững âu vàng.
Hoặc truyền thuyết về vua Lý Thái Tổ cũng lưu truyền bài thơ diễn tả “khẩu khí đế vương” của ngài lúc còn hàn vi:
Thiên vi khâm chẩm, địa vi chiên
Nhật nguyệt đồng song đối ngã miên
Dạ thâm bất cảm tràng thân túc
Chỉ khủng sơn hà xã tắc điên.
Nghĩa là:
Trời làm màn gối, đất làm chăn
Nhật nguyệt cùng ta một giấc yên
Đêm khuya chẳng dám dang chân duỗi
Chỉ sợ sơn hà xã tắc nghiêng.
Từ “xã”, “Hán Việt tự điển” của Thiều Chửu giải thích là “đền thờ thổ địa”, còn “tắc” là lúa, hay quan coi ruộng lúa. “Hán Việt từ điển” của Đào Duy Anh chú giải rõ hơn: “Thuở xưa dựng nước tất quý trọng nhân dân. Dân cần có đất ở nên lập nền xã để tế thần Hậu thổ, dân cần có lúa ăn, nên lập nền tắc để tế Thần Nông. Mất nước thì mất xã tắc, nên xã tắc cũng có nghĩa là quốc gia”.
Theo truyền thuyết thời thượng cổ ở Trung Quốc thì có ông Câu Long phát minh ra “xã”, là gò đất có thể để dân ở, trồng trọt. Sau khi Câu Long mất, được tôn làm Thổ thần, hay Xã thần. Còn vị quan coi về nông nghiệp thời cổ gọi là Tắc Chính, sau được tôn làm Nông thần, hay Ngũ cốc thần, vì vậy “tắc” chính là Nông thần.
Theo sách Chu Lễ thì thời phong kiến nhà Chu, vua các nước lập đàn Xã Tắc ở bên phải của vương cung, đối lập với tông miếu được lập bên trái của vương cung, đàn Xã Tắc đại biểu cho đất đai, tông miếu đại biểu cho huyết thống, đều là tượng trưng cho đất nước.
Do đó, đàn Xã Tắc có vị trí vô cùng thiêng liêng với các triều đại, việc giữ gìn, bảo tồn đàn Xã Tắc cũng chính là giữ gìn đất nước.
Nước ta, từ thời bắt đầu xây nền tự chủ, vua nhà Đinh đã lập đàn Xã Tắc ở kinh đô Hoa Lư. Vua Lý lập đàn Xã Tắc ở Thăng Long, và đàn này tồn tại đến thời Lê. Nhà Hồ dời đô về Đông Kinh (Thanh Hóa) cũng lập đàn Xã Tắc ở đó, và đàn Xã Tắc của nhà Nguyễn lập ở Phú Xuân (Huế), vẫn còn đến ngày nay.
“Đại Việt sử ký toàn thư” viết: “Năm Mậu Tý, niên hiệu Minh Đạo năm thứ 5 (1048 – đời Lý Thái Tông), mùa Thu, lập đàn Xã Tắc ở ngoài cửa Trường Quảng, bốn mùa cầu đảo mùa màng”.
Trong “Kiến văn tiểu lục”, Lê Quý Đôn chép: “Triều nhà Lý, lập đàn Phong Vân để cầu mưa; đàn Xã Tắc để cầu quanh năm được mùa; dùng ngày lập xuân làm lễ nghênh xuân”.
Cũng trong sách này, Lê Quý Đôn mô tả đàn Xã Tắc theo thể chế định trong đời Hồng Đức nhà Hậu Lê, có “nền đàn một khu, nội nghi môn 3 gian, cửa nhỏ 2 gian, bốn xung quanh đắp tường, điện Canh Y 1 gian 1 chái, nhà Túc Yết 5 gian 2 chái, kho tế khí và phòng bếp đều 3 gian, ngoại nghi môn 3 gian, bốn xung quanh đắp tường”. Đàn này nằm ở quanh phố Xã Đàn, quận Đống Đa, thuộc phía Nam kinh thành Thăng Long.
Lễ tế đàn Xã Tắc tại đàn tế Xã Tắc, phường Thuận Hòa, TP Huế. |
Năm 2006, khi thành phố Hà Nội thực hiện thi công đường Vành đai 1 tại khu vực ngã năm đầu phố Xã Đàn, phường Nam Đồng, quận Đống Đa, đã phát lộ các dấu tích của đàn Xã Tắc thời xưa.
Triều Nguyễn, vào năm Gia Long thứ 5 (1806) đàn Xã Tắc đã được dựng lên bên trong Kinh thành Phú Xuân (nay thuộc địa phận phường Thuận Hòa, thành phố Huế), để tế cúng thần Xã và thần Tắc. Khi đó, triều đình nhà Nguyễn đã huy động tất cả dinh trấn trong cả nước cống đất sạch để đắp đàn.
Sau khi đàn Xã Tắc được xây dựng xong, triều đình nhà Nguyễn rất chú trọng việc cúng tế ở đàn. Ý nghĩa của việc tế lễ đàn Xã Tắc cũng quan trọng không kém việc tế ở đàn Nam Giao và cùng được xếp ở bậc đại tự (trong ba bậc tế lễ là đại tự, trung tự và quần tự).
Theo quy định của triều Nguyễn, vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu, vua “ngự giá” làm Lễ tế đàn Xã Tắc, những năm còn lại các ban đại thần thay nhau thực hiện công việc này.
Từ thời vua Minh Mạng trở đi, triều đình tổ chức cúng tế đàn Xã Tắc mỗi năm hai lần vào tháng 2 và tháng 8 âm lịch. Cả 13 đời vua Nguyễn nói chung đều thân hành đến làm chủ lễ ở đàn Xã Tắc. Đàn Xã Tắc cùng với đàn Nam Giao là hai đàn tế có vị trí quan trọng bậc nhất trong triều đình nhà Nguyễn.
Như vậy, với ý nghĩa quan trọng, “xã tắc” đã được mang nghĩa là “đất nước” từ hàng nghìn năm trước. Trong thơ văn, các nhà Nho vẫn dùng hai từ “xã tắc” với ý nghĩa trang trọng. Điển hình như đôi câu đối do Tiến sĩ khoa Ất Mùi đời Thành Thái (năm 1895) Nghiêm Xuân Quảng, soạn, khắc treo ở cột đình Đại Tự (xã Kim Chung, huyện Hoài Đức, Hà Nội) ca ngợi danh tiếng, sự oai phong của vua Lý Nam Đế vang đến tận nhà Lương bên đất Bắc và truyền mãi ở nước nhà như sau:
Nhất đẳng anh hùng, uy vũ dao truyền Lương Bắc quốc
Vạn xuân xã tắc thanh danh vĩnh bá Việt Nam thiên.
Nghĩa là:
Anh hùng bậc nhất, uy vũ xa truyền sang nhà Lương nơi nước Bắc
Xã tắc muôn năm, tiếng tăm vang mãi ở nước Việt chốn trời Nam.