Vợ Nguyễn Bính không đồng ý việc lấy tên người tình đặt cho con

"Đối với chị A.T., tôi cho rằng mối tình rất đẹp. Mặc dù tôi rất tôn trọng anh chị, nhưng tôi không chấp nhận việc anh lấy tên người ta đặt cho con tôi" - người vợ miền Nam nói với nhà thơ Nguyễn Bính

Vợ Nguyễn Bính không đồng ý việc lấy tên người tình đặt cho con

Nhà thơ Nguyễn Bính (1918-1966) là nhà thơ "Chân quê". Trong suốt nhiều thập kỷ qua, thơ của ông luôn gây xúc động cho nhiều thế hệ độc giả. Gia tài của nhà thơ nếu đã đọc một lần sẽ đủ nhớ suốt đời không chỉ là những bài thơ với hương vị tình yêu nồng nàn và sức sống mãnh liệt mà còn là một không khí mùa xuân tươi tắn và trong trẻo vô bờ bến, sống mãi với nhân gian.

Mùa xuân thăm gia tài của cố thi sỹ

Trong hành trình đi tìm người thân của nhà thơ Nguyễn Bính cũng chẳng còn nhiều người và ngoài cô con gái Hồng Cầu là người am hiểu về thơ, về tình của Nguyễn Bính. Giờ đây, chính cô con gái đầu lòng đã xây dựng và chăm sóc nhà tưởng niệm thi sỹ Nguyễn Bính tại số 23, đường 11, phường 11, quận Gò Vấp -TP. Hồ Chí Minh.

Vợ Nguyễn Bính không đồng ý việc lấy tên người tình đặt cho con - Ảnh 1

Bà Hồng Cầu.

Bà sưu tầm lại toàn bộ những kỷ vật liên quan đến cha. Những tấm ảnh từ thời kháng chiến ố màu thời gian, những bức chân dung, cuốn sách cũ "Xuân tha hương", "Lỡ bước sang ngang", "Bóng giai nhân", "Người con gái ở lầu hoa", "Cây đàn tì bà", "Tuyển tập thơ văn", "Tiểu thuyết thứ bảy", "Thơ tình hay nhất" của Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Hồ Dzếnh, Tế Hanh, Hàn Mặc Tử..., chiếc lư hương, nghiên mực... Những bức viết tay bằng chữ thảo, những bức tranh chữ do nhà thơ hoặc bạn bè chép lại, họa lại thơ ông.

Đặc biệt, tại góc phòng trong cùng, bức thêu tay "Đôi mắt" của người nữ thư ký yêu ông và có với ông một đứa con, được trang trọng treo ở đó, rất gần bàn thờ thi sỹ nhưng khá kín đáo, nếu không để ý, khách tham quan sẽ lướt qua.

Ngắm từng di vật của cố thi sĩ, mà trong lòng xao xuyến nghe từng giọt buồn rơi nằng nặng nơi giọng nói của người con gái đầu lòng của ông, và chiêm nghiệm về những người phụ nữ đi qua cuộc đời kỳ lạ của nhà thơ. Để rồi lòng thật bình an khi vẫn an nhiên tự tại đọc báo, nghe đài, xem tin tức thời sự ngay cạnh đó, trên chiếc tràng kỷ phôi pha màu thời gian, chính là người vợ miền Nam – bà Hồng Châu nay đã bước vào tuổi chín mươi lăm.

Vợ Nguyễn Bính không đồng ý việc lấy tên người tình đặt cho con - Ảnh 2

Nhà thơ Nguyễn Bính Hồng Cầu (bìa trái) và mẹ (bà Hồng Châu).

Gần một trăm năm cho một cuộc đời người thật nhiều sóng gió, bão bùng. Bà trân trọng sự xuất hiện của ông, trân trọng tài năng, chữ nghĩa của ông, và tôn trọng những nhịp đập của trái tim ông, cho dù nó hướng về muôn ngả. Và con gái bà, với cái tên ông phải đấu tranh để đặt dấu ấn của mình vào tờ giấy khai sinh, bây giờ lại là người hằng ngày nhang khói, sống với những kỷ vật, di vật của người thơ.

Thật may trong khi đi tìm tư liệu về Nguyễn Bính, bà Hồng Châu đã nắm đầy đủ lắm. Nhắc đến bà Châu được trở về với tuổi thơ, đầy ắp những kỷ niệm đẹp. Quê của cha bà tại thôn Vân, xã Đồng Đội, huyện Vụ Bản, Nam Định. Theo bà Cầu nhớ lại, thôn Vân đặc biệt mang nét dân dã làng quê, có bờ đê, cánh đồng, có núi xa xa, có dòng sông uốn quanh. Cha đẻ của Nguyễn Bính là Nguyễn Đạo Bình, thường được gọi là ông Cả Biền, mẹ của Bính là Bùi Thị Miên.

Quê nội Nguyễn Bính ở xóm Trạm, thôn Thiện Vịnh, xã Đồng Đội, Vụ Bản, Nam Định. Gọi là xóm Trạm vì ở xóm này đặt một trạm giống như bưu điện bây giờ (để chuyển thư từ, sách báo). Tuy nhiên xóm Trạm không có nhiều kỷ niệm của tuổi ấu thơ với Nguyễn Bính. Cho đến tận lúc 14 tuổi, Nguyễn Bính đều sống tại thôn Vân và sau này có rất nhiều bài thơ tả đồng quê đều có thấp thoáng hình bóng thôn Vân trong đó.

Những mối tình… giang hồ

Bà Hồng Cầu nhớ lại rằng, khi cha tôi khoảng 14-15 tuổi, chia tay với thôn Vân để ra Hà Nội kiếm sống. Kể về thôn Vân bỗng chốc mắt của cụ Cầu như sáng hẳn lên. Cụ đọc bài thơ "Thôn Vân" do chính Nguyễn Bính viết. Bài thơ được làm có lẽ vào khoảng năm 1938, trong đó có đoạn tuyệt hay:

"Thôn Vân có biếc có hồng

Hồng trong nắng sớm, biếc trong vườn chiều

Đê cao có đất thả diều

Giời cao lắm lắm có nhiều chim bay

Quả lành trĩu nặng trên cây

Sen đầy ao cá, cá đầy ao sen".

Năm 1933, Nguyễn Bính từ xóm Trạm xuống Hội Phủ Giầy rồi buổi chiều lấy vé ôtô đi Hà Nội bắt đầu những chuyến giang hồ. Bà Châu lặng đi một hồi, rồi ông từ từ đọc lại bài thơ của cụ Nguyễn viết Tết năm 1938. Có lẽ không có nhiều người biết về bài thơ này. Bài thơ có tên "Đêm 30 Tết".

Bà Cầu kể rằng, lúc đó cha xa thôn Vân, nhớ những ngày Tết với không khí Tết ấm cúng, Nguyễn Bính có gửi về bài thơ này. Rất tiếc có một vài câu trong bài thơ không giữ cũng không nhớ được. Ông chỉ đọc một đoạn:

"Trời đen như mực tối 30

Diệm trốn nhà sang để gặp tôi

Hai đứa ngôi ngồi trên đệm rạ

Lặng nhìn nồi bánh rộn ràng sôi

Ánh lửa hồng lên má Diệm hồng

Cổ tay nàng trắng, mắt nàng trong

Tôi không dám hỏi nhưng đưa mắt

Ý hỏi sao em chửa lấy chồng".

Tất nhiên là thi sỹ thì yêu cái đẹp như một sự tất yếu. Trong nhiều bài thơ của cha bà đều thấp thoáng có bóng dáng một ai đó. Ví dụ có người tên Diễm, có người tên Nhi, tên Thi rồi chị Trúc... Mỗi một cuộc tình, mà thường là đơn phương, Nguyễn Bính đều để lại một sáng tác.

Cụ Cầu ngồi lặng im một lát, có lẽ để ký ức trôi về thời tuổi trẻ: Về những cuộc tình của Nguyễn Bính. Yêu thì đẹp, thơ thì hay, còn vào duyên phận thì lận đận. Ngay như bài thơ "Cô hái mơ", Nguyễn Bính viết khi mới 16-17 tuổi nhưng đã có những câu thơ rất bay bổng, lãng mạn: "Hỡi cô con gái hái mơ già. Cô chửa về ư, đường thì xa. Mà ánh chiều hôm dần một tắt. Hay cô ở lại về cùng ta".

Bà Cầu thong thả đứng ra ngoài phía cửa sổ nhìn lên cây khế lúc này đang đơm hoa, đôi mắt dường như nhắm lại và kể: "Có bài thơ "Hoa với rượu" cha tôi viết năm 1941 lúc đang ở Huế nhắc về nhân vật Nhi trong bài thơ. Nhi hay còn gọi là Diễm là một cô gái người xóm Đình, thôn Vân. Từ những năm 15, 16 tuổi, Diễm đã nổi tiếng đẹp quanh vùng. Tóc dài đen, da trắng mịn, môi luôn nở nụ cười xinh, dáng người thon thả. Hầu hết cánh trai làng đều chết mê, chết mệt. Thời gian ở thôn Vân, Bính thường trò chuyện với Diễm và một số cô gái khác làng.

Diễm có một người chị gái tên là L. cũng rất xinh. Sau này khi Bính gửi cho tôi bài thơ "Hoa với rượu". Hồi đó cha tôi rất có tình cảm với Diễm. Nhưng vào thời đó, còn nhiều ràng buộc, định kiến nên tình cảm đó rồi cũng qua đi.

Hình ảnh Diễm sau này xuất hiện trong khá nhiều bài thơ hay của Nguyễn Bính như bài "Gái xuân" có câu "Đôi tám xuân đi trên mái tóc. Đêm xuân cô ngủ có buồn không", hay bài "Đường làng" có câu "Lá tre rơi xuống đường làng. Lá tre rơi xuống vai nàng đi qua...". Bà Châu dừng lại một lát rồi ông đọc một câu trong "Hoa với rượu":

"Bỏ lại vườn cam, bỏ mái gianh

Tôi đi gian díu với kinh thành

Hoa thơm mơ mãi vườn tiên giới

Chuốc mãi men cay rượu ái tình".

Đọc xong, bà Châu nói: "Rất tiếc lúc đó tôi không về dự được. Nhưng sau này thỉnh thoảng tôi vẫn về thôn Vân. Bây giờ thôn Vân đã khác rất nhiều so với thời của cha tôi rồi. Tôi cũng đã cất công đi tìm rặng mùng tơi mà cha đã từng viết trong bài thơ "Người hàng xóm" có câu thơ:

"Nhà nàng ở cạnh nhà tôi / Cách nhau cái dậu mùng tơi xanh rờn", nhưng bây giờ rặng mùng tơi không còn nữa. Giếng nước khơi, nhà mái tranh... cũng không còn nữa, thay vào đó là nhà mái bằng, có điện, tivi... Nhưng thơ của cha thì có một sức sống thật diệu kỳ. Cách đây ít năm, có lần tôi về thôn Vân, qua bến đò bỗng nghe một bà lão đã ngoài 70 tuổi ru cháu ngủ bằng bài "Lỡ bước sang ngang" của Nguyễn Bính mà không hề lỗi một câu nào. Tôi xúc động đến lặng người".

Tình yêu sét đánh và những nỗi đau… sét đánh

Nhà thơ "Chân quê" lãng tử chẳng kém gì công tử Bạc Liêu. Ông yêu nhiều, mà yêu ai cũng say sưa, đắm đuối, cũng trở thành một ảo ảnh thi ca. Thế rồi, khi con đường cách mạng đưa ông xuôi về vùng non nước Nam Bộ, ngay trong lần gặp đầu tiên với bậc nữ lưu miền Nam – bà Hồng Châu đã khiến ông mê mẩn nói chẳng nên lời.

Hồng Châu là tên gọi trên đường kháng chiến của bà, còn tên thật là Nguyễn Lục Hà. Thời điểm gặp ông, bà Hồng Châu đã trải qua muôn vạn dặm trường của đói nghèo, khổ cực, những năm tháng đầu tiên gây dựng phong trào cách mạng gian khổ ngặt nghèo.

Bà là nữ chiến sỹ cách mạng thời kỳ bí mật, cái chết luôn rình rập lơ lửng sát trên đầu. Và cả những ngậm ngùi đau đớn khi chia tay người yêu đi vào vùng kháng chiến không hẹn ngày trở lại, rồi lần lượt những dấu ấn cuộc đời cay nghiệt khi buộc phải lập gia đình như mặc lên mình một tấm áo che thân để dễ bề hoạt động sau khi đã thoát khỏi chốn lao tù biệt giam.

Gian khó cùng mình, đói nghèo bủa vây, con thơ đầu lòng lao lực cũng đành mất, những nỗi đau bóp nghẹt trái tim người mẹ khiến bà như chết đi sống lại, còn đau hơn cả những lúc thân thể nát bấy, bầm giập vì đòn thù hiểm ác. Điện giật dùi đâm dao cắt lửa nung đã khiến bà gần như liệt mất nửa con người, nhưng tinh anh vẫn luôn tỏa sáng, từ ánh mắt trung trực tới khí tiết hào sảng, bà không chỉ đẹp, quý phái mà còn là bậc nữ lưu có học và tài hoa văn chương. Chỉ có bà mới đủ sức giữ chân người thơ trên con đường kháng chiến, và hôn sự của hai người cũng như một nhiệm vụ mà người Đảng viên chân chính phải chấp hành.

Đám cưới kháng chiến vui nhớ đời, bạn bè từ khắp nơi nghe tin Nguyễn Bính cưới vợ, dù sông sâu ngăn cách rừng thẳm nhưng cũng tranh thủ về dự, tranh thủ coi mắt xem cô dâu là ai mà dám lấy anh chàng thi sỹ nghèo rớt mùng tơi, suốt đời mắc vào duyên bút mực, bị trời đày làm thơ này.

Ngày vui ngắn chẳng tày gang. Nhà thơ nghèo, tâm hồn lại mênh mông vô phương neo giữ, nên căng thẳng nhất là thời điểm bà sinh con gái. Hồi ký của bà Hồng Châu ghi lại, chồng bà sắp có con đầu lòng thì vui lắm nên nhà thơ nhắm nhe: "Sanh con gái đầu lòng, đặt tên Anh Thơ nhé! Còn nếu là con trai, ta lập thành dòng họ Nguyễn Bính Hồng...".

Mới nghe tới đó, bà đã nghẹn ngào gắt: "Khi tôi lấy anh, tôi chấp nhận tất cả, tôi biết anh yêu nào cô Tuyên (Nguyễn Bính lấy tên nhân vật của mình là Tú Uyên), cô Oanh, cô Dung, cô Phùng... nhưng tôi chưa bao giờ có ý ghen tuông nghĩ ngợi gì cả. Đối với chị Anh Thơ, tôi cho rằng mối tình rất đẹp. Mặc dù tôi rất tôn trọng anh chị, nhưng tôi không chấp nhận việc anh lấy tên người ta đặt cho con tôi. Tôi nói thật lòng chứ không có hàm ý ghen tuông gì. Anh hiểu cho rằng tôi là mẹ, tôi có công mang nặng đẻ đau thì tôi phải có trọn quyền làm mẹ".

"Thôi nếu sau này nó là con gái, em muốn đặt tên gì tùy ý, con trai thì anh đặt tên là Nguyễn Bính Hồng Chân" – Nguyễn Bính đấu dịu – Hồng Chân là chân lý màu hồng. Anh muốn lấy tên cha mẹ đặt cho con, để mai sau lớn lên, nó tự răn mình không làm điều sai quấy, ảnh hưởng đến mẹ cha"...

Cuối cùng, lúc bà làm khai sanh cho con gái, ông hộ tịch vừa viết xong ba chữ Nguyễn Hồng Cầu, thì nhà thơ ở đâu chạy tới hỏi:

- Vợ tôi khai sanh tên con nhỏ là gì đó ông Báu (tên ông hộ tịch)

- Chị Năm đặt tên cho cháu là Nguyễn Hồng Cầu, mẹ Hồng Châu, chị lấy tên lót của mẹ đặt cho con gái, tên nghe hay quá.

Nguyễn Bính mặt ỉu xìu nói:

- Ấy ấy... Ông thêm một chữ Bính nữa vào tên cháu!

Ông hộ tịch ngẩn ngơ xoay xoay cây viết trong tay, nhìn nhà thơ hỏi:

- Thêm chữ Bính vào đâu? Trời ơi! Tên con gái gì nghe dài thòn, kỳ cục, lại còn Bính nữa!

Ông Báu bỏ viết cười lăn. Mọi người có mặt ở đó cũng cười theo. Nhưng Nguyễn Bính không cười, mặt rất nghiêm, anh chỉ vào giấy khai sanh, nơi ghi tên họ con nhỏ, sau chữ Nguyễn và nói:

- Ông thêm vào chỗ này: Nguyễn Bính Hồng Cầu! Có cha có mẹ mới có con. Không phải một mình mẹ nó đẻ ra nó. Mai sau khôn lớn nhớ tên cha mẹ đặt cho nó mà ăn ở phải đạo làm người. Nó là con đầu của tôi đấy!

Bà Hồng Châu nhắc:

- Hôm đó vợ chồng đã thỏa thuận với nhau, con gái thì tôi muốn đặt tên gì tùy ý, con trai thì anh đặt, sao bây giờ anh lại đổi ý!

Nguyễn Bính thật sự nổi nóng:

- Không có tôi, sao hồi trước cô không giỏi đẻ đi! Thêm một chữ Bính vào, có chết ai không? Con gái tôi là Nguyễn Bính Hồng Cầu.

Nguyễn Bính nhìn xoáy vào mắt vợ, nói từng tiếng:

- Đây là đứa con đầu lòng của tôi, của người vợ đầu tiên danh chánh ngôn thuận, nên tôi mới lấy tên họ tôi mà đặt cho nó, ý nghĩa ở chỗ đó, cô hiểu chưa?...

Vợ Nguyễn Bính không đồng ý việc lấy tên người tình đặt cho con - Ảnh 3

Nguyễn Bính ở báo Trăm Hoa năm 1957

Cô con gái Nguyễn Bính Hồng Cầu vừa tròn lên hai thì ngày chia ly thật sự tới. Nguyễn Bính có tên trong đoàn quân tập kết ra Bắc, về lại nơi quê hương xa tít trùng khơi. Nhưng miền Nam với người vợ miền Nam và đứa con gái đầu lòng đã trở thành quê hương thứ hai của tác giả “Lỡ bước sang ngang” và ông không nỡ rời xa họ. Vậy mà vì vướng bận mẹ già, con nhỏ, nhiệm vụ cách mạng giao phó, bà Hồng Châu được phân công ở lại miền Nam.

“Tàu từ từ tách bến, Nguyễn Bính cố nhoài ra boong tàu, đưa cao hai ngón tay hẹn với Châu ngày anh trở lại. Châu vẫy tay lưu luyến tiễn chồng. Hồng Cầu cố nhoài người theo phía con tàu khóc quẫy đòi cha. Nó đâu biết rằng con tàu ấy đã chở đi của nó một người cha. Và vĩnh viễn không bao giờ trả lại cho nó..." – Trích hồi ký của bà Hồng Châu.

Câu thơ như đã vận vào người

Mười hai năm sau cuộc chia tay trên bến tàu, Nguyễn Bính mất trong một cơn bạo bệnh, không giữ tròn lời hẹn ước với người vợ miền Nam. Trở ra Bắc, nhà thơ có thêm một người vợ chính thức và một người khác không chính thức. Những người con của ông sau này thành đạt nhưng chẳng ai theo nghiệp viết lách, trừ mỗi người con gái đầu, với cái tên Nguyễn Bính Hồng Cầu đã được viết xuống trang giấy khai sanh trong những căng thẳng, đau đớn, loạn lạc ly tán, nhiều hôm dầm kênh chạy càn tưởng chết, nhiều hôm đạn bom ràn rạt quanh mình.

Hồng Cầu tâm sự, hồi còn nhỏ, cô cũng giận cha mình lắm, mãi sau này mới hiểu đời ông bất hạnh nhiều. Ông cứ phải đi tìm cái bóng hạnh phúc cho đến khi nhắm mắt xuôi tay vào đêm mùa xuân sầm sập tới đúng lúc giao thừa năm 1966, ông đã ra đi trong sự tiếc nuối của làng Văn.

“Năm mới tháng Giêng mùng một Tết

Còn nguyên vẹn cả một mùa xuân…”

Câu thơ của ông đã vận vào người. Nguyễn Bính ra đi đúng vào lúc Giao thừa, khi đất trời vần vũ chuyển giao khí tiết sang một năm mới tới. Lạnh lùng và đau đớn chẳng khác nào một cuộc sinh nở, như nguyên tắc của vũ trụ, tận diệt hóa sinh. Liệu đó có phải là một cuộc sinh nở vĩ đại để khai sinh ra mùa xuân? Và đất trời ưu ái lắm nên đã đưa nhà thơ của mùa xuân ra đi trong mùa xuân vĩnh hằng. Thế nên xác thân ra đi về nơi cát bụi nhưng hồn thơ mùa xuân thì còn lại mãi với nhân gian...

Theo Người đưa tin

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ