Thực hiện nhiệm vụ đổi mới giáo dục phổ thông theo tinh thần Nghị quyết 29/NQ-TW, ngày 6/3/2014 Bộ GD&ĐT đã ban hành kế hoạch số 103/KH-BGDĐT về việc tổ chức hội thảo “Đổi mới kiểm tra, đánh giá chất lượng học tập môn Ngữ văn trong trường phổ thông”.
Hội thảo nhằm nghiên cứu cơ sở lý luận và xây dựng kế hoạch triển khai việc đổi mới phương thức kiểm tra đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn ở trường phổ thông theo định hướng phát triển năng lực người học với cách thức xây dựng đề thi/kiểm tra và đáp án theo hướng mở; tích hợp kiến thức liên môn; giải quyết vấn đề thực tiễn.
Để chuẩn bị cho Hội thảo (dự kiến được tổ chức tại Hà Nội trung tuần tháng 4/2014), báo Giáo dục và Thời đại giới thiệu một số bài thảo luận về vấn đề nêu trên.
Xin mời các ý kiến trao đổi, góp ý cho bài viết này gửi về các địa chỉ sau: nthoan@moet.edu.vn;
ttkdung@moet.edu.vn;
pthien@moet.edu.vn
Trân trọng cảm ơn!
1. Các văn bản trong chương trình Ngữ văn trung học phổ thông
PISA cho rằng: “Văn bản được hiểu bao gồm tất cả những gì liên quan đến văn bản ngôn từ sử dụng các hình thức biểu tượng: viết tay, bản in và dạng điện tử. Chúng cũng bao gồm cả các sản phẩm thị giác như biểu đồ, tranh ảnh, bản đồ, bảng biểu, đồ thị và tranh hài hước, châm biếm kèm theo ngôn ngữ viết”
Nhưng các văn bản trong sách giáo khoa Ngữ văn THPT từ lớp 10 đến lớp 12 hầu hết là văn bản ngôn từ. Trong đó, văn bản nghệ thuật chiếm số lượng rất lớn ở cả 3 khối lớp THPT.
Các đề thi tầm Quốc gia như thi tốt nghệpTHPT, Cao đẳng, Đại học, các câu hỏi thường tập trung vào các văn bản nghệ thuật. Các văn bản nghệ thuật trong sách giáo khoa THPT gồm các tác phẩm thơ, tác phẩm truyện, tác phẩm kí.
Theo GS Trần Đình Sử, “khởi điểm của môn Ngữ văn là dạy học sinh đọc hiểu trực tiếp văn bản văn học của nhà văn… Nếu học sinh không trực tiếp đọc các văn bản ấy, không hiểu được văn bản, thì coi như mọi yêu cầu, mục tiêu cao đẹp của môn Văn đều chỉ là nói suông, khó với tới, đừng nói gì tới tình yêu văn học”.
Do đó, có thể nói rèn luyện năng lực, kĩ năng đọc – hiểu văn bản cho học sinh là một trong những yêu cầu quan trọng, khoa học và đúng đắn để các em tiếp cận môn Ngữ văn, đánh thức tình yêu đối với môn Văn và có khả năng vận dụng sáng tạo kiến thức đã học trong nhà trường vào cuộc sống.
2. Yêu cầu đọc - hiểu văn bản ở môn Ngữ văn THPT
Thời gian qua, do mục đích, động cơ học tập chính của học sinh là học để vượt qua các kì thi, chương trình đọc - hiểu môn Ngữ văn THPT vẫn “nặng” về trang bị kiến thức hơn là yêu cầu rèn kĩ năng, năng lực nhất là tư duy sáng tạo, tự học, tự nghiên cứu, năng lực thực hành và giải quyết vấn đề cuộc sống.
Trong “Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng” môn Ngữ văn lớp 10, 11, 12, ở phần "Hướng dẫn thực hiện", đối với các văn bản nghệ thuật, văn bản nhật dụng có hai phần:
1- Tìm hiểu chung: (Tìm hiểu về tác giả, tác phẩm. Đối với tìm hiểu tác phẩm, có thể chia ra các yêu cầu nhỏ: hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ, thể loại, vị trí đoạn trích, bố cục….)
2- Đọc – hiểu văn bản: Ở phần Đọc – hiểu văn bản, “Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng” hướng vào các yêu cầu cần đạt sau:
- Nội dung;
- Nghệ thuật;
- Ý nghĩa văn bản;
Tất nhiên, “Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng” chỉ là định hướng để giáo viên giảng dạy. Nhưng các đề thi và đáp án môn Ngữ văn thời gian qua thường chú trọng các yêu cầu về nội dung, nghệ thuật của văn bản nên để đáp ứng các yêu cầu của đề thi, giáo viên cũng tập trung cung cấp kiến thức cho học sinh.
Năng lực “hiểu văn bản” của học sinh thường phụ thuộc rất nhiều vào kiến thức của giáo viên giảng dạy. Hầu hết giáo viên tập trung hướng đến cung cấp kiến thức cho các em học sinh. Do đó, năng lực đọc – hiểu văn bản của các em chưa được phát huy tối đa.
3. Yêu cầu đọc – hiểu văn bản trong PISA
Kỳ thi PISA yêu cầu học sinh phải có những năng lực tổng hợp. Ngoài phần thi ở lĩnh vực Toán học, học sinh phải trải qua phần đọc hiểu với những kỹ năng, hiểu biết về các văn bản hành chính, văn học nghệ thuật, văn bản khoa học, toán học....
Lĩnh vực đọc - hiểu của PISA yêu cầu học sinh đọc và trả lời các câu hỏi về các loại văn bản (bao gồm cả văn bản nhật dụng, văn bản hành chính, văn bản toán học, văn bản khoa học,...).
Ngoài những câu hỏi về nội dung, thông tin … trong văn bản, đề thi PISA còn có những câu hỏi mở, đưa ra những tình huống trong cuộc sống để học sinh thể hiện quan điểm cá nhân, yêu cầu các em phải suy ngẫm, đưa ra quan điểm, nhận xét, ý kiến của cá nhân, phải phân tích sâu, thuyết phục.
PISA thực sự chú trọng tới việc phát triển năng lực, kĩ năng cho học sinh hơn là mục tiêu thưởng thức văn chương nghệ thuật. Do đó, đề thi PISA đánh giá được năng lực đọc – hiểu văn bản của học sinh.
4. Vận dụng PISA trong việc đánh giá năng lực đọc – hiểu văn bản của học sinh THPT ở môn Ngữ văn
PISA đánh giá cao năng lực đọc – hiểu. Vì năng lực đọc - hiểu có ý nghĩa thiết thực và tầm quan trọng lớn với sự trưởng thành của con người. Nó không chỉ là một yêu cầu trong suốt thời kỳ trẻ thơ ở nhà trường phổ thông mà nó còn trở thành nhân tố quan trọng trong việc xây dựng, mở rộng những kiến thức, kỹ năng và chiến lược của mỗi cá nhân trong suốt cuộc đời khi họ tham gia vào các hoạt động ở những tình huống khác nhau trong mối quan hệ với người xung quanh, cũng như trong cả cộng đồng rộng lớn.
Nhận thức rõ những ưu điểm của PISA, hiện nay, Bộ GD&ĐT đang có chủ trương vận dụng PISA trong giảng dạy và kiểm tra, đánh giá năng lực đọc – hiểu văn bản của học sinh để góp phần cải tiến chất lượng giáo dục phổ thông, chú trọng đến khả năng tư duy, lập luận của học sinh, giúp các em gắn kiến thức học tập trong nhà trường vào giải quyết các vấn đề ngoài cuộc sống.
Đối với môn Ngữ văn THPT, việc vận dụng PISA trong việc đánh giá năng lực đọc – hiểu văn bản (chủ yếu là văn bản nghệ thuật và văn bản nhật dụng) của học sinh là yêu cầu hợp lý, khoa học, đúng đắn để đáp ứng các yêu cầu của môn học, đồng thời gợi tình cảm tích cực của học sinh đối với môn Văn, giúp các em nhanh chóng hòa nhập với giáo dục quốc tế.
Để giúp các em học sinh THPT phát huy được năng lực đọc – hiểu văn bản, các thầy giáo cô giáo đang giảng dạy môn Ngữ văn cần tìm được phương pháp giảng dạy phù hợp và hiệu quả. Và rất cần phải đổi mới cách kiểm tra đánh giá để đánh giá đúng năng lực đọc – hiểu của học sinh.
a) Vận dụng PISA trong việc xây dựng câu hỏi, đề thi: Đề kiểm tra đọc – hiểu của chương trình Ngữ văn THPT hiện hành chủ yếu là đề tự luận. Còn các câu hỏi, đề kiểm tra của PISA bao gồm hai phần: trắc nghiệm và tự luận. Do đó, vận dụng Pisa trong việc xây dựng đề thi, chúng ta có thể da dạng hóa đề bài.
b) Vận dụng PISA trong việc đánh giá bài thi: Giúp giáo viên đổi mới cách đánh giá bài làm của học sinh.
Trước đây, chúng ta chỉ chú trọng kiến thức trong văn bản nhưng học tập PISA, sẽ chú trọng đánh giá cách tư duy của học sinh, kỹ năng giải quyết các vấn đề đặt ra, cho phép học sinh được thể hiện, bày tỏ các quan điểm cá nhân, tránh đánh giá theo lối mòn, đơn chiều, phát huy được năng lực sáng tạo, cảm thụ văn bản của bản thân.
VÍ DỤ THAM KHẢO
Ví dụ 1: Vận dụng PISA trong việc xây dựng câu hỏi trắc nghiệm khách quan đánh giá năng lực đọc hiểu văn bản “Chữ người tử tù” (Ngữ văn 11).
- Câu hỏi được xây dựng với nhiều cấp độ (1,2,3)
- Nhiều câu hỏi mở (trả lời ngắn và dài), học sinh phải suy ngẫm, phân tích, được phát biểu quan điểm cá nhân (câu 3, 10, 11, 14, 15, 16)
Phần trắc nghiệm:
Câu hỏi 1: Truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân được rút từ tập truyện nào?
· “Chiếc lư đồng mắt cua”
· “Một chuyến đi”
· “Thiếu quê hương”
· “Vang bóng một thời”
Câu hỏi 2: Viên quản ngục và thầy thơ lại đã nghe đồn về Huấn Cao là người:
A. Có tài bẻ khóa và vượt ngục, viết chữ rất nhanh và rất đẹp.
B. Võ nghệ cao cường, có lòng yêu thương dân chúng.
C. Coi thường quản ngục, ngông nghênh, đáng ghét.
D. Văn giỏi, họa đẹp, võ nghệ cao cường.
Câu hỏi 3: Mở đầu truyện ngắn là cuộc đối thoại của viên quản ngục và thầy thơ lại. Đối tượng trong câu chuyện của họ là Huấn Cao. Sau khi kể về lời đồn đã nghe được về Huấn Cao, thầy thơ lại nói với quản ngục:
(...) thế ra y văn võ đều có tài cả. Chà chà!
(…) giả thử tôi là đao phủ, phải chém những người như vậy, tôi nghĩ mà thấy tiêng tiếc.
Lời khen và nỗi “tiêng tiếc” của thầy thơ lại đối với Huấn Cao thể hiện ý nghĩa gì?
Câu hỏi 4: Sáu phạm nhân mang chung một chiếc gông dài tám thước.
(…) Trong khi chờ đợi cửa ngục mở rộng, Huấn Cao đứng đầu gông, quay cổ lại bảo mấy bạn đồng chi:
- Rệp cắn tôi, đỏ cả cổ lên rồi. Phải dỗ gông đi.
Sáu người đều quỳ cả xuống đất, hai tay ôm lấy thành gông đầu cúi cả về phái trước. Một tên lính áp giải đùa một câu:
- Các người chả phải tập nữa. Mai mốt chi đây sẽ có người sành sỏi dẫn các người ra làm trò ở pháp trường. Bấy giờ tha hồ mà tập. Đứng dậy không ông lại phết cho mấy hèo bây giờ.
Huấn Cao lạnh lùng chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá đánh thuỳnh một cái.
Hành động của Huấn Cao thể hiện thái độ của ông đối với bọn lính canh như thế nào?
A. Sợ hãi.
B. Không run sợ.
C. Hoảng hốt.
D. Ngạc nhiên.
Câu hỏi 5: Huấn Cao nói với quản ngục “Ngươi hỏi ta muốn gì. Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”.
Câu trả lời của Huấn Cao thể hiện :
A. Thái độ thiết tha năn nỉ viên quản ngục không bước vào nhà ngục nữa.
B. Dũng khí của người anh hùng, sẵn sàng đợi cơn giận lôi đình của quản ngục bị sỉ nhục.
C. Cảnh báo những nguy hiểm tiềm ẩn trong nhà ngục.
D. Nỗi thất vọng của người anh hùng trong hoàn cảnh tù đày.
Câu hỏi 6: Mong muốn của Quản ngục là gì?
A. Nhanh chóng giết Huấn Cao, tên tử tù nguy hiểm.
B. Kết bạn với Huấn Cao để bớt cô đơn.
C. Có được chữ của Huấn Cao để treo ở nhà riêng.
D. Giúp Huấn Cao vượt ngục, thoát khỏi tù tội.
Câu hỏi 7: Một buổi chiều lạnh, viên quản ngục tái nhợt người đi sau khi tiếp đọc công văn, cho lính gọi thầy thơ lại lên, kể rõ tâm sự mình.
Thầy thơ lại đã chạy ngay xuống phòng giam Huấn Cao :
A. Tạm biệt Huấn Cao và cho lính đưa ông đi tử hình
B. Cầu xin Huấn Cao viết tặng quản ngục mấy chữ trên vuông lụa trắng
C. Khóc lóc thảm thiết, kể cho Huấn Cao nghe nỗi lòng quản ngục
D. Báo cho Huấn Cao biết việc về kinh chịu án và kể cho Huấn Cao biết nỗi lòng quản ngục
Câu hỏi 8: Vì sao Huấn Cao tự nguyện cho chữ Quản ngục?
A. Vì nể thầy thơ lại đã cầu xin
B. Vì cảm ơn quản ngục đã biệt đãi
C. Vì muốn được nổi tiếng
D. Vì biết quả ngục có sở thích cao quý
Câu hỏi 9: Huấn Cao đã khuyên quản ngục:
A. Đừng buồn khi Huấn Cao về kinh chịu án tử hình
B. Giữ dòng chữ cuối cùng của Huấn Cao một cách cẩn thận
C. Bỏ nghề, tìm về quê nhà mà ở
D. Treo chữ của Huấn Cao trong nhà ngục
Câu hỏi 10: Thái độ của quản ngục khi được Huấn Cao cho chữ và khuyên nhủ:
A. Sung sướng, mãn nguyện
B. Cảm động, khóc nghẹn ngào
C. Khó chịu, bực bội
D. Bình tĩnh cảm ơn Huấn Cao
Phần trắc nghiệm:
· Phân tích tình huống truyện trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân.
· Cảm nhận về hình tượng nhân vật Huấn Cao.
· Cảm nhận về nhân vật quản ngục.
· Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân trước Cánh mạng tháng Tám qua truyện ngắn “Chữ người tử tù” .
Ví dụ 2: Vận dụng PISA trong việc xây dựng câu hỏi trắc nghiệm khách quan đánh giá năng lực đọc hiểu một phần văn bản “Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống aids, 1-12-2003” (Ngữ văn 12).
Đọc đoạn văn sau để trả lời các câu hỏi liên quan.
“Cách đây hai năm, các quốc gia trên thế giới đã nhất trí rằng để đánh bại căn bệnh HIV/AIDS, cần phải có sự cam kết, nguồn lực và hành động. Tại phiên họp đặc biệt vào năm 2001 của Đại hội đồng Liên hiệp quốc về HIV/AIDS, các quốc gia đã nhất trí thông qua Tuyên bố về Cam kết phòng chống HIV/AIDS, trong đó đưa ra một loạt mục tiêu cụ thể kèm theo thời hạn để chiến đấu chống lại dịch bệnh này.
Ngày hôm nay, chúng ta đã cam kết và các nguồn lực đã được tăng lên. Song những hành động của chúng ta vẫn quá ít so với yêu cầu thực tế.
Đến thời điểm này, ngân sách dành cho phòng chống HIV đã được tăng lên một cách đáng kể, nhờ vào sự cam kết đóng góp tại từng quốc gia. Đồng thời, vấn đề thành lập quỹ toàn cầu về phòng chống AIDS, lao và sốt rét cũng đã được thông qua.
Đại đa số các nước đã xây dựng chiến lược quốc gia phòng chống HIV/AIDS của mình. Ngày càng có nhiều công ti áp dụng chính sách phòng chống HIV/AIDS tại nơi làm việc.
Nhiều nhóm từ thiện và cộng đồng đã luôn đi đầu trong cuộc chiến chống AIDS, hiện đang hoạt động tích cực trong việc phối hợp chặt chẽ với chính phủ và các tổ chức khác để cùng nhau ứng phó với bệnh dịch này.
Nhưng cũng chính lúc này, dịch HIV/AIDS vẫn hoành hành, gây tỉ lệ tử vong cao trên thế giới và có rất ít dấu hiệu suy giảm. Trong năm năm qua, mỗi phút đồng hồ của một ngày trôi đi, có khoảng 10 người bị nhiễm HIV.
Ở những khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất, tuổi thọ của người dân bị giảm sút nghiêm trọng. HIV/AIDS đang lây lan với tốc độ báo động ở phụ nữ. Giờ đây phụ nữ đã chiếm tới một nửa trong tổng số người bị nhiễm trên toàn thế giới.
Bệnh dịch này đang lan rộng nhanh nhất ở chính những khu vực mà trước đây hầu như vẫn còn an toàn – đặc biệt là Đông Âu và toàn bộ châu Á, từ dãy núi U- ran đến Thái Bình Dương.”
( Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống AIDS, 1/12/2003 - Cô-phi An-nan)
0 1 9
Câu hỏi 1:
Trên đây là đoạn mở đầu của văn bản Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống aids, 1/12/2003 của tác giả Cô - phi An –nan, Tổng thư kí Liên hiệp quốc (1997- 2007).
Mở đầu văn bản, tác giả nhiều lần nhắc về thời gian hiện tại “Ngày hôm nay …”, “Đến thời điểm này…”, “cũng chính lúc này…” nhằm mục đích gì?
· Động viên các nước đang có những hoạt động tích cực phòng chống HIV/ AIDS.
· Tổng hợp tình hình hiện tại của việc phòng chống HIV/ AIDS.
· Khẳng định những nguy cơ của bệnh dịch HIV/ AIDS trong hiện tại.
· Định hướng lý do cấp bách của bản thông điệp.
0 1 9
Câu hỏi 2:
Cô-phi An-nan không nêu tổng số người nhiễm HIV trong một năm mà thống kê số người bị nhiễm HIV trong một phút “mỗi phút đồng hồ của một ngày trôi đi, có khoảng 10 người bị nhiễm HIV”. Hiệu quả cách đưa dữ liệu ấy?
A. Giảm nỗi sợ hãi của người đọc trước sự hoành hoành của bệnh dịch HIV.
B. Gây ấn tượng mạnh mẽ về sự hoành hoành dữ dội của bệnh dịch HIV.
C. Dễ ghi nhớ số liệu được thống kê.
D. Khẳng định chắc chắn bệnh dịch HIV xảy ra chưa được một năm.
0 1 9
Câu hỏi 3:
Bệnh dịch HIV gây tử vong cao, giảm sút tuổi thọ của con người, mức độ lây lan với tốc độ báo động ở chính những khu vực mà trước đây hầu như vẫn còn an toàn.
Em sẽ làm gì để làm chậm lại và ngăn chặn hậu quả nhiễm HIV ở địa phương em?
……………………………………………………………………………………………
Lời kết
Tiếp cận PISA trong việc đánh giá năng lực đọc – hiểu văn bản Ngữ văn của học sinh THPT sẽ đem đến nhiều đổi mới trong giảng dạy cho giáo viên và học tập cho học sinh, hướng đến những năng lực tư duy, sáng tạo, tránh được lối học thụ động, không gắn với thực tiễn cuộc sống.
Mặt khác vận dụng PISA trong đánh giá năng lực đọc – hiểu cho học sinh cũng là để hòa nhập với giáo dục Quốc tế.
Hy vọng, chu kỳ PISA tiếp theo, chúng ta sẽ đạt được nhiều kết quả khả quan!