Túy lan "vang bóng" trong văn Nguyễn Tuân

GD&TĐ - Túy lan được vị hưu quan là Quan án Trần đưa từ Yên Tử sơn về.

Nhà văn Nguyễn Tuân. Ảnh minh họa (nguồn IT)
Nhà văn Nguyễn Tuân. Ảnh minh họa (nguồn IT)

“Hoa xưa kia quen cái khí hậu nơi đỉnh núi cao; nhất đán hoa về nơi đồng bằng hoa không khỏi một phen rầu rĩ với ngày nắng hạ, đêm sương thu chỗ xứ lạ mà lá úa giò gầy”. Chủ nhân sớm chiều hai buổi thăm hoa, lòng lo “hoa kia chẳng ở mãi với mình, mà cái công ngàn dặm chọn đất lành bọc cỏ quý quảy về quê hương sẽ lấy chi đền chuộc lại”. Như thấu lòng người, sau một hồi tàn tạ giữa lan viên, Túy lan lại “bắt đầu cười với gió xuân về”, hoa “thoảng mùi lan đượm”, “lá xanh rờn trên mấy hàng chậu sứ” có phủ lần vỏ sò cùng hòn cuội trắng trên lớp đất. Chủ nhân vui như “sống một cảnh đời mới”. 

Nguyễn Tuân là một tài tử mắc bệnh ham mê thanh sắc, thích chiêm ngưỡng, chắt chiu cái đẹp và nhấm nháp những cảm giác mới lạ (Phan Cự Đệ). Nhà văn lãng mạn của văn học Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 từng là một kẻ giang hồ lạc phách thiếu quê hương, luôn đi kiếm tìm cái đẹp của một thời nay chỉ còn vang bóng. “Vườn xuân lan tạ chủ” là truyện ngắn tiêu biểu trong “một văn phẩm gần đạt đến sự toàn thiện, toàn mĩ” (Vũ Ngọc Phan) - “Vang bóng một thời” của nhà văn tài hoa Nguyễn Tuân.

Tác phẩm đã làm sống lại cả một thời đã qua với những nếp sống xã hội nho phong của một nền văn minh xưa cũ, là niềm nuối tiếc của một tâm hồn hoài cổ trước cái đẹp của một thời đại đã qua, cái thời ấy nay đã chết, chỉ còn để lại một tiếng vang. Hình tượng Túy lan trong thiên truyện được miêu tả như biểu tượng của cái đẹp, cái thanh cao, cao quý nhưng hiếm hoi, lạc loài. Tấm lòng thiết tha và nỗi niềm khắc khoải trước số phận cái đẹp trong thời buổi nhiễu nhương đương thời được nhà văn Nguyễn Tuân kín đáo thể hiện trong từng câu chữ, từng hình ảnh, hình tượng trên những trang văn tài hoa, uyên bác.

1. Vườn xuân lan

Vườn xuân lan là khoảnh vườn độ bốn, năm sào, nằm bên bến đò Ái Sơn, phía hữu ngạn con sông Mã, được bao bọc bởi những rặng tre đằng ngà. Cổng vào vườn được kiến trúc theo lối cổng bên Phù Tang hải đảo, bên trên có ba chữ thếp vàng “Túy lan trang” cấn vào nền gỗ lim sơn màu cấn rượu.

Chủ nhân của “Túy lan trang” là một vị hưu quan. Kể từ ngày nộp lại triều đình chiếc ấn vàng, chủ nhân lan viên lui về chỗ huê viên, làm bạn với loài lan. Ông để hết thời giờ vào việc vun trồng, chăm chút một thứ lan rất quý, đó là Túy lan.

Túy lan được chủ nhân đưa từ Yên Tử sơn về, “Hoa xưa kia quen cái khí hậu nơi đỉnh núi cao; nhất đán hoa về nơi đồng bằng hoa không khỏi một phen rầu rĩ với ngày nắng hạ, đêm sương thu chỗ xứ lạ mà lá úa giò gầy”. Chủ nhân sớm chiều hai buổi thăm hoa, lòng lo “hoa kia chẳng ở mãi với mình, mà cái công ngàn dặm chọn đất lành bọc cỏ quý quảy về quê hương sẽ lấy chi đền chuộc lại”. Lan như thấu lòng người, sau một hồi tàn tạ giữa lan viên, Túy lan lại “bắt đầu cười với gió xuân về”, hoa “thoảng mùi lan đượm”, “lá xanh rờn trên mấy hàng chậu sứ” có phủ lần vỏ sò cùng hòn cuội trắng trên lớp đất. Chủ nhân vui như “sống một cảnh đời mới”. Rồi lan kia như cảm tình người tri kỉ, ngày một thêm hoa. Chủ nhân nhường nơi đất tốt để cho “cỏ quý nẩy ngọc thêm cành”, lùi lầu trang về một mé huê viên. Tên giống lan được đặt tên biệt thự - “Túy lan trang”.

Bằng giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế, với ngôn ngữ cổ kính, trang trọng, nhà văn Nguyễn Tuân đang thổi vào Túy lan một tấm lòng thiết tha với cái đẹp - cái đẹp của lan và cả cái đẹp của chủ nhân vườn lan. Lan gặp chủ, thử lòng chủ để quí hơn tấm lòng tri kỉ. Xuân lan và ông chủ “Túy lan trang” mãi là biểu tượng cho cái đẹp cao khiết, hiếm hoi giữa cuộc đời này - cái đẹp “Vang bóng một thời” mà Nguyễn Tuân nâng niu, công phu lưu giữ trên từng con chữ.

2. “Túy lan trang”

Để “cái vương giả hương” của lan còn ở với người thế gian, nhớ lời sư cụ chùa Quỳnh Lâm, vùng tỉnh Đông dặn lại sau khi cho giống lan, mỗi bận xuân về, chủ nhân “Túy lan trang” lại cho vườn lan say với hơi rượu, bón lan bằng hương rượu. Rượu được lấy từ vùng cất rượu ngon có tiếng ở Châu Thang, là làng Vĩnh Trị.

Vào những buổi sớm mùa xuân, khi mặt nước con sông Mã “phẳng lặng như tờ, lại lăn tăn làn sóng nhỏ do mái chèo đập làn nước của một chiếc thuyền nan bơi từ bến Ái Sơn sang bến làng Vĩnh Trị”, đó là lúc cô chiêu Tần - con gái ông chủ “Túy lan trang” đi lấy rượu về bón hoa. Trên dòng sông Mã, một cô gái mà “cái dáng điệu dịu dàng đã in theo khuôn nhịp chốn đài trang, tóc cánh phượng, áo mặc rộng tay màu thiên thanh, chân đi dép cỏ mà lại thực hành một cái ý nghĩ chan chứa màu thơ - ngày xuân, cảnh sớm, bơi thuyền lấy rượu cho hoa”. Đó quả thực là “một cảnh tượng giống như trong tranh thủy mặc của người tàu”.

Khi cô chiêu Tần trên thuyền chở rượu về, đã có cậu ấm Hai ngồi đợi. Cậu Hai cưỡi con bạch tuấn, ghì cương xuống yên, tản bộ đến một cái quán dựng trên đê. Khi “ngồi đợi người yêu lâu quá sức đợi”, cậu ấm Hai lại cất mình lên ngựa. Rồi, khi nghe “vẳng tiếng hát nơi đầu sông đưa lại”, cậu ấm Hai nhận thấy được tiếng người quen, bèn gò đôi cương, nâng cao đầu ngựa trắng, lỏng tay buông tay khấu, lần bước dặm đê, xuống nơi dốc chỗ bến đò. Cảnh cậu ấm Hai và cô chiêu Tần gặp nhau nơi giang đầu “hệt cảnh tả trong bài thơ của Bạch Lạc Thiên”.

Khi người xuống ngựa, khách dừng chèo, cô chiêu Tần mở lời:

“- Xin lỗi công tử đã dày công chờ tiện nữ. Dưới Nguyệt viên vào đám, đặt nhiều rượu ở bên Vĩnh Trị, nên hôm nay qua lấy rượu cho lan phải đợi lâu. Vậy công tử sang bản trang từ bao giờ?

- Án từ nơi huyện đã xong nên bữa nay gia nghiêm muốn qua Túy lan trang xem hoa nở. Gốc trầm Quảng Nam buộc ở đầu ngựa này sẽ dùng để đốt lên trong khi lệnh nghiêm và gia nghiêm cho phép tiểu sinh ngồi trì hồ.

- Quan Lệnh doãn cho công tử mang trầm qua Túy lan trang như mỗi lần hội diện cùng gia nghiêm, thời bên bàn rượu, trước những giò lan nở, tiện nữ lại một phen được nghe lại tiếng đàn thập lục của công tử”…

Trong mỗi lời đối đáp có nhắc đến những thú chơi tao nhã, lúc xem hoa, lúc chơi đàn... Tình ý của đôi trẻ ẩn sau lớp bọc ngôn ngữ vừa nhẹ nhàng vừa trang nhã đã phần nào đậm sâu.

Duyên của cậu Hai và cô chiêu Tần được xe bởi tình thân của Quan Lệnh doãn huyện Đông Sơn và Quan án Trần bên Túy lan trang. Ngày còn làm kẻ thư sinh, hai ông già này đã “thi một trường, thụ giáo một thầy và xuất thân cùng một hội”. “Sóng nước bể hoạn tuy không làm chìm đắm nổi khách công danh trong khoảng mấy chục năm trời nhưng cũng đã làm cho hai người đòi phen tơ tưởng lúc xa nhau”. Hoạn hải từ ngày thuyền buộc bến, Quan án Trần về ở Túy lan trang, cho là “một cái diễm phúc, được vui tuổi già gần người cố hữu”. Rồi muốn cho cái tình thân ấy được thân hơn một bực nữa, đôi bạn già ngỏ ý cho nhau rõ rằng sẽ đi lại với nhau bằng cái tình thông gia gây nên bởi cuộc phối hợp nay mai của đôi trẻ.

Bằng thứ ngôn ngữ cổ kính, bằng lối văn tài hoa, mê đắm, nhà văn Nguyễn Tuân đã tô vẽ nên một thiên tình sử tuyệt trần giữa cậu ấm và cô chiêu. Mối tình ấy phảng phất cái đẹp cổ trang, đẹp từ dáng điệu đến lời nói của đôi trai tài gái sắc, đẹp trong không gian giang đầu gặp gỡ đến không gian tràn sắc hương và nhạc điệu của Túy lan trang, đẹp trong từng lời văn trau chuốt, duyên dáng và trữ tình. Cất dấu sau mỗi dòng văn là tình cảm thiết tha của nhà văn Nguyễn Tuân với cái đẹp.

“Vang bóng một thời”. Ảnh minh họa (nguồn IT)
“Vang bóng một thời”. Ảnh minh họa (nguồn IT)

3. Vườn xuân lan tạ chủ

“Nếu hầu hết những hạnh phúc đều giống nhau ở chỗ ấm cúng, êm đềm, đầy đủ, thời mỗi nghịch cảnh lại có bộ mặt riêng tùy theo cái đau đớn của người trong cuộc”. Lạc thú hai gia đình nhà họ Trần và Quan Lệnh doãn Đông Sơn đã dần bị chìm đắm trong cơn binh lửa gây nên bởi loạn Văn thân.

Cô chiêu Tần “sống vào buổi non sông mờ cát bụi đã đành trông ngóng cái thời bình”. Cậu ấm Hai “gặp lúc loạn ly, không những không có thủ đoạn của kẻ làm trai thời loạn, mà còn tỏ cho người thời ấy biết rằng một kẻ thư sinh chỉ có cái tâm hồn lãng mạn là một người chọn nhầm thế kỉ. Chọc trời khuấy nước, trong khi người ta ham chuộng cái sức khỏe mà chỉ biết có ngón đàn, hiểu hồn hoa, thời ở tâm người tài tử nên chỉ biết buồn, tủi, cực đến dường nào!”. Trước những cái tin máu xương thành sông núi, trăm họ bị làm cỏ, hai trái tim thơ ngây, của cô chiêu Tần và cậu ấm Hai, đều đập chung một điệu hãi hùng. Quan án Trần, thời thân già đã không lấy làm quan tâm đến vóc dáng xương khô, còn những lo cho hoa, không ngăn nổi gót chân đám người ô hợp nếu một mai chúng tràn đến. Quan Lệnh doãn Đông Sơn lo việc tuần tiễu quân nghịch cũng thưa đi lại trên quan án Trần. Nơi “Túy lan trang” hoa vẫn nở, người vẫn không chểnh mảng việc vun xới cho hoa nhưng “lần lần như đã thấy cảnh điêu tàn”. Nguyên do không phải tại người, không phải tự hoa “chỉ tại cái không khí nặng nề của thời loạn phảng phất trên chỗ hoa viên”.

Rồi vào một đêm cuối năm “mưa tuôn rả rích, gió thổi vù vù”, “Túy lan trang” bỗng bốc cháy. Mé lầu trang lửa đỏ ngất trời, tiếng người đi lại nhộn nhịp, tiếng người quát tháo dữ dội. Cô chiêu Tần bị người ta nhét giẻ vào miệng vực đi, rời khỏi bến đò Ái Sơn. “Túy lan trang” lửa vẫn đỏ ngòm mà không một ai cứu hỏa. Tre và gỗ chỗ lầu trang thi nhau mà cháy trước những ngọn lửa xanh lè liếm quanh loài thảo mộc. Sang canh tư, lửa lụi dần đám cháy không soi rõ những đám lan xanh rờn trên chậu sứ. “Đêm tăm tối buông một bức màn bí mật, lạnh lẽo lên chỗ đầu hoa viên tàn tạ. Chỗ đầu sông, đàn đóm lập lòe nơi bến nước, gió đêm vi vút bãi lau già!”. Người trong vùng “triết lí suông giữa hai ngụm nước chè tươi nơi quán”, cho rằng: “Quan án Trần cũng vì bị kinh động, cảm xúc mạnh quá mà chết. Cô chiêu Tần thuyền cướp mang đi. Cái biệt thự kia bị cháy ra tro. Cho hay sống vào cái thời loạn, cái phú quí và cái sắc đẹp cũng nhiều khi là cái mầm vạ lớn”.

Từ khi lan vắng chủ, từ khi hoa không người, giống cỏ quý kia cũng quyết tạ theo tri kỉ, thề không ở lại với thế gian. Cái thuật cất “rượu khê” bên làng Vĩnh Trị cũng không ai truyền lại cho ai nữa. Và thế là “người giai nhân đã đi, cái hào hoa cũng tận”. Cỏ cây nơi Túy lan trang đều một loạt ủ rũ như để tang người thiên cổ, “Tơ liễu khóc mưa, tóc tùng reo gió, bóng tre lìa bụi, đều ngậm một cái tình buồn trước cái hương trời lăn lóc khoảnh vườn hoang”. Cả lan và cây ở “Túy lan trang” đều chung nỗi niềm tạ chủ.

“Vườn xuân lan tạ chủ” nằm trong hành trình đi tìm cái đẹp của nhà văn Nguyễn Tuân - tìm về một thời xưa cũ, một thời đã qua nay chỉ còn trong kí ức. Đây cũng có thể xem là không gian nghệ thuật đặc biệt - nơi hội ngộ của cái đẹp. Cái đẹp của hình tượng nghệ thuật và cái đẹp của tài năng sáng tạo nghệ thuật đã hun đúc nên những biểu tượng cái đẹp bất biến trên những trang văn, đọng nhiều dư ba trong lòng người đọc. Hình tượng vườn xuân lan, vẻ đẹp của mối tình cậu ấm cô chiêu, nét đẹp của tình thân Quan Lệnh doãn Đông Sơn và  Quan án Trần… tất cả đều là những biểu tượng của cái đẹp - cái đẹp khi hiện hữu, lúc lại ẩn sâu trong tâm thức, trong tâm hồn con người.

Ở không gian nghệ thuật của “Vườn xuân lan tạ chủ”, nhà văn Nguyễn Tuân đã thành công khi làm sống dậy cả một thời kì lịch sử dân tộc, khi số phận cái đẹp trở nên mong manh, dễ lụi tàn. Nỗi niềm hoài vọng và tiếc nuối của nhà văn trước sự rời xa của cái đẹp trong thiên truyện để lại nỗi ngậm ngùi, xót xa cho người đọc. Đây cũng chính là âm hưởng chung trong cả mười hai thiên tùy bút và truyện ngắn của tập “Vang bóng một thời”, là lối đi của những sáng tác thuộc dòng văn học lãng mạn thời kì trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Vườn xuân lan tạ chủ giờ chỉ còn vài di vật, đó là “một khoảnh đất cao hơn mặt ruộng, đứng xa trông như một cái gò phát bằng ngọn”, là “một chỗ đi về của đám mục đồng”, là “Gò Lan tạ”, “Quán cậu Hai”…  Tất cả câu chuyện của thiên “thảm sử Túy lan trang” đều đã bị thời gian xóa nhòa, chỉ còn lại “một cái kỉ niệm buồn rầu”. “Gò, quán kia đã ghi vào trong tâm trí khách chơi hoa một cái kỉ niệm buồn rầu. Vườn xuân lan tạ chủ; đàn đóm lập lè nơi bến nước mà gió đêm vi vút bãi lau già… Truyện được khép lại bằng những câu văn buông lửng đầy tiếc nuối, xót xa - xót xa cho số phận cái đẹp trước thời buổi loạn ly.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ

Tỷ lệ sinh tại Nam Á bắt đầu giảm.

Phụ nữ Nam Á ngại… sinh con

GD&TĐ - Ngày càng nhiều phụ nữ tại Nam Á không muốn sinh con vì những lý do như tài chính, trách nhiệm gia đình, thậm chí là lo sợ về ngày 'tận thế'.