Bộ trưởng cũng chia sẻ những bài học kinh nghiệm cùng định hướng phát triển GD - ĐT trong thời gian tới.
Thực hiện cơ chế công khai, minh bạch
- Sau 7 năm thực hiện Nghị quyết 29 về đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT, đâu là những kết quả Bộ trưởng tâm đắc nhất?
- Sau 7 năm thực hiện Nghị quyết 29 có nhiều kết quả đã đạt được. Trước hết, đã thể chế hóa được các quan điểm, nội dung của Nghị quyết 29 trong cơ chế, chính sách của Quốc hội, Chính phủ, Bộ GD&ĐT nên đến thời điểm này đã có hành lang pháp lý đầy đủ để thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT; tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động đổi mới.
Ở bậc mầm non, hoàn thành phổ cập mầm non 5 tuổi trên toàn quốc. Đây có thể nói là nỗ lực rất lớn, khi nước ta ở mức thu nhập trung bình và trong điều kiện nhiều vùng kinh tế - xã hội còn khó khăn. Kết quả này được các tổ chức quốc tế như UNICEF, UNESCO đánh giá cao.
Ngoài ra, chúng ta cũng đạt được phổ cập tiểu học và THCS ở mức độ cao. Chất lượng giáo dục tiểu học vào tốp đầu các nước ASEAN; trong đánh giá chất lượng đại trà PISA, điểm của học sinh Việt Nam cũng ở nhóm cao trong số 79 nước, trong đó chủ yếu là các nước OECD.
Với giáo dục mũi nhọn, trong 5 năm qua, học sinh Việt Nam giành 54 Huy chương Vàng tại các kỳ Olympic quốc tế, gấp đôi giai đoạn trước. Thành tích này được quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.
Với giáo dục đại học, giai đoạn vừa qua cũng nhiều điểm sáng. Trước hết, thực hiện cơ chế tự chủ đại học, nhiều trường đổi mới công tác quản trị; một số cơ sở giáo dục đại học xuất hiện trên các bản đồ xếp hạng quốc tế. Lần đầu tiên, Việt Nam có 4 trường đại học được xếp trong nhóm 1.000 trường đại học tốt nhất thế giới, 11 cơ sở giáo dục đại học xếp trong nhóm 500 trường tốt nhất châu Á.
- Từ thực tiễn triển khai, bài học kinh nghiệm được rút ra là gì, thưa Bộ trưởng?
- Kinh nghiệm rút ra là: Phải kiên trì đổi mới. Cho đến nay, đổi mới đã đi đúng hướng. Đối với giáo dục mầm non, quan trọng là tạo điều kiện tốt về chăm sóc, nuôi dưỡng, an toàn cho trẻ. Còn với phổ thông, giai đoạn vừa rồi đánh dấu quá trình triển khai Chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới theo tinh thần Nghị quyết 29 của Trung ương Đảng, Nghị quyết 88 của Quốc hội.
Điểm nổi bật của lần đổi mới này là cách tiếp cận chuyển từ truyền đạt nội dung chuyển sang phát triển phẩm chất, năng lực người học. Cụ thể, trước đây học sinh học để biết gì, thì nay là học để làm gì. Điều này khắc phục được nhược điểm cơ bản là, học lý thuyết mà không gắn với thực tiễn, trải nghiệm.
Đối với giáo dục đại học, chúng ta đã thực hiện tự chủ đại học rất mạnh. Lần đầu tiên tư duy tự chủ đại học “ngấm” được vào đội ngũ lãnh đạo các trường đại học. Tuy nhiên, vẫn cần có thêm thời gian, bởi tự chủ đại học là một quá trình. Quan trọng là lãnh đạo các trường đại học thấy được tự chủ là tất yếu.
Bộ GD&ĐT đã quan tâm xây dựng hành lang pháp lý, tạo thuận lợi cho quá trình tự chủ. Bộ đã tham mưu cho Chính phủ xây dựng và trình Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học (Luật số 34); sau đó tham mưu với Chính phủ ban hành Nghị định 99. Chúng tôi đang chỉ đạo các trường đại học, trước hết là hoàn thiện Hội đồng trường, để Hội đồng trường phải là một thiết chế thực quyền.
Bên cạnh đó, Bộ GD&ĐT đang làm rất mạnh về kiểm định và minh bạch chất lượng. Các trường đại học thực hiện theo cơ chế cạnh tranh nên chương trình đào tạo phải xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, chất lượng, điều kiện bảo đảm chất lượng phải được công khai, minh bạch.
Trong bối cảnh tự chủ đại học, Bộ GD&ĐT sẽ tập trung rà soát, ban hành cơ chế chính sách, tạo môi trường đủ thông thoáng và chặt chẽ cho các cơ sở giáo dục đào tạo hoạt động mang tính cạnh tranh và tăng cường thanh, kiểm tra. Thanh, kiểm tra ở đây không phải để siết lại mà để “gỡ khó” cho các trường. Trong môi trường cạnh tranh, nếu một số trường đại học hoạt động không tốt sẽ ảnh hưởng tới các trường khác. Nên thực chất, thanh, kiểm tra là để xóa bỏ những “u nhọt”, tạo môi trường cạnh tranh thực sự công bằng, dân chủ.
Chúng tôi cũng triển khai hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia của đại học. Chủ trương của ngành là, trong 5 năm tới sẽ triển khai mạnh chuyển đổi số với đại học. Một mặt để xây dựng tài nguyên số và phương thức đào tạo trực tuyến, kết hợp với trực tiếp. Mặt khác, áp dụng công nghệ thông tin còn là để minh bạch hóa điều kiện bảo đảm chất lượng.
Chủ trương của Bộ là cố gắng hạn chế hành chính, tăng cường minh bạch, tạo cơ chế cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi cho người đi học, bảo vệ những cơ sở giáo dục đại học làm tốt.
Hướng đi toàn diện
- Đổi mới cơ chế quản lý là khâu đột phá. Vậy, Bộ trưởng có thể chia sẻ rõ hơn về vấn đề này?
- Một trong những đổi mới được cho là đột phá là đổi mới cơ chế quản lý. Đối với Nhà nước tập trung quản lý Nhà nước, với nhà trường tập trung quản trị. Quản lý Nhà nước phải tăng cường, nhất là nhiệm vụ thanh kiểm tra. Trong quá trình thanh kiểm tra, nếu thấy cần điều chỉnh cơ chế chính sách sẽ kịp thời điều chỉnh, chứ không phải chính sách ban hành xong là xong.
Chúng tôi quyết tâm, những cơ sở nào kém chất lượng và có biểu hiện gian dối, trong thẩm quyền hoặc kiến nghị các cấp có thẩm quyền xử lý mạnh, nhằm tạo ra môi trường minh bạch. Chính sự minh bạch sẽ sắp xếp lại các nguồn lực, điều chỉnh lại các trường.
- Có ý kiến cho rằng, chúng ta đang nghiêng về đào tạo nhiều hơn giáo dục. Bộ trưởng có nhận định gì?
- Ý kiến đó là có cơ sở. GD-ĐT rất rộng, liên quan đến mọi người, mọi nhà. Không chỉ ở nước ta mà các nước khác cũng vậy, kỳ vọng gia đình, xã hội bao giờ cũng lớn, trong khi điều kiện thực hiện ở mức độ. Chúng ta đã và đang thực hiện nhiệm vụ đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT để chất lượng giáo dục tiến nhanh với nền giáo dục tiên tiến. Bên cạnh cái được rất lớn về kiến thức, vấn đề giáo dục kỹ năng, đặc biệt là kỹ năng mềm, đạo đức, thể lực của học sinh còn hạn chế. Tuy nhiên, công bằng mà nói, với giáo dục phổ thông, chúng ta tập trung nhiều về giáo dục, vì chúng ta hướng tới sự toàn diện; đâu đó vẫn có một số điểm cần cải thiện và sẽ được tăng cường trong thời gian tới.
Riêng với giáo dục đại học là đào tạo nghề nên phải chuyên sâu. Bởi vậy, cần tạo môi trường cho sinh viên học các kỹ năng, nhất là những kỹ năng tiếp cận môi trường doanh nghiệp, việc làm. Vừa qua, ngành Giáo dục thực hiện Đề án 1665 của Thủ tướng Chính phủ về khởi nghiệp sáng tạo cho học sinh sinh viên. Qua 3 năm thực hiện kết quả rất tốt. Đó không hẳn là mỗi năm có 500 - 600 đề án hay ý tưởng sáng tạo; mà quan trọng đã tạo ra môi trường để các em trải nghiệm và chia sẻ kinh nghiệm lẫn nhau.
Đẩy mạnh chuyển đổi số
- Bộ trưởng đánh giá như nào về quan điểm đổi mới sáng tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực được nêu trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII?
- Tôi đánh giá rất cao, để có được quan điểm này là một quá trình, tập hợp nhiều ý kiến trí tuệ của các thành viên trong ban soạn thảo và những nhà khoa học. Tôi cũng được tham gia là thành viên Ban Văn kiện kinh tế - xã hội. Theo tôi, đổi mới, sáng tạo là “hồn cốt” của trường đại học. Khi nói đến khoa học hay đổi mới, sáng tạo không có nghĩa là phải làm ra cái mới khác cái cũ; mà là có phương pháp, tư duy, phương thức để đổi mới. Ở bậc đại học, đổi mới trước hết trong hoạt động dạy - học và đổi mới trong phương thức kết nối giữa đại học và doanh nghiệp.
Thuật ngữ “đổi mới sáng tạo” được coi là một trong những điểm nhấn tới đây phải thực hiện. Ý tưởng đổi mới sáng tạo không phải mới có, nhưng chưa được đúc rút nhiều. Tôi tin rằng, giai đoạn 2021 - 2026, vai trò của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo trong lực lượng trí thức, hướng tới xã hội số, dân trí số sẽ được thúc đẩy. Nếu xu hướng thuận, mọi người sẽ ý thức được và chủ động để bắt nhịp. Nếu nhận thức về xu hướng còn “lừng khừng” thì luôn là người đi sau, mà đã là người đi sau thì không nắm bắt được cơ hội.
Tôi cho rằng, giai đoạn tới đây là thời cơ cho giáo dục Việt Nam cất cánh. Với đường hướng rõ ràng, cùng sự trợ giúp của công nghệ thông tin và chuyển đổi số, đặc biệt là quyết tâm của toàn ngành sẽ tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ.
Tôi lấy ví dụ, hiện có nhiều ý kiến băn khoăn về vấn đề thiếu giáo viên (cụ thể là giáo viên Tiếng Anh và giáo viên Công nghệ thông tin). Nếu nhìn nhận theo tư duy truyền thống sẽ thấy đúng là thiếu thật, nhưng với tư duy mới là áp dụng công nghệ thông tin thông qua dạy học trực tuyến và sử dụng bài giảng từ nguồn tài nguyên số, chúng ta sẽ thấy, giáo viên không nhất thiết phải đủ số lượng như dạy học truyền thống.
Một ví dụ nữa, trước đây các phòng thí nghiệm truyền thống phải có máy móc, dụng cụ mô phỏng, giáo cụ, nhưng bây giờ có nhiều phòng thí nghiệm ảo, học sinh và giáo viên đều rất hứng thú với mô hình này.
Như vậy, với quá trình áp dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số mạnh, tài nguyên số được chia sẻ, chất lượng giáo dục sẽ tăng lên, nguồn lực sẽ giảm nhiều so với cách truyền thống.
- Xin cảm ơn Bộ trưởng!