(GD&TĐ) - Thơ chiến trận là một bộ phận sáng tác quan trọng không thể bỏ qua khi tìm hiểu thơ văn Trần Nhân Tông. Những vần thơ ông làm lúc trực tiếp cầm quân đuổi giặc không nhiều. Giới nghiên cứu đời sau lục tìm khắp các sách cũng chỉ tìm thấy vài ba bài ngắn ngủi. Nhưng điều đáng quý là những bài thơ ngắn ngủi ấy, bài nào cũng mang những giá trị sâu sắc cả về tư tưởng lẫn nghệ thuật. Quan trọng hơn, trong thơ chiến trận của ông, ta nhìn thấy hình ảnh con người thời đại với tất cả sự tự tin, mạnh mẽ, hào hùng.
|
Đền thờ vua Trần Nhân Tông |
Đầu năm 1285, quân Nguyên Mông tiến vào ải Nội Bàng, mở đầu cho cuộc xâm lược nước Đại Việt lần thứ hai. Trước thế mạnh của giặc, ải Nội Bàng thất thủ. Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn thay đổi chiến lược, lui quân phòng thủ để bảo toàn lực lượng chờ thời cơ phản công. Tình thế trước mắt gặp nhiều khó khăn, lòng người không khỏi hoang mang, dao động. Trên con thuyền rút về Hải Đông, Trần Nhân Tông đề vào đuôi thuyền hai câu thơ bất hủ:
Cối Kê cựu sự quân tu ký
Hoan, Diễn do tồn thập vạn binh
(Việc cũ ở Cối Kê ngươi nên nhớ
Đất Hoan, Diễn vẫn còn kia mười vạn binh)
Hai câu thơ gợi nhắc điển cũ Cối Kê, lúc Việt Vương Câu Tiễn bị quân Ngô dồn vào ngõ cụt, binh sĩ tan tác, tưởng như không thể phục hồi lại được. Ấy vậy mà chỉ với một nghìn quân ít ỏi còn sót lại, Câu Tiễn đã xây dựng thành một đội quân hùng mạnh sau này thôn tính nước Ngô hoàn thành bá nghiệp. Gợi lại tích xưa, Trần Nhân Tông muốn khẳng định niềm tin mãnh liệt của mình vào chiến thắng. Vị hoàng đế muốn nhắc nhở tướng sĩ của mình rằng đừng vội nản lòng vì những rối ren trước mắt, đừng quên chúng ta vẫn còn mười vạn quân Hoan Diễn đang sẵn sàng chờ tiếp ứng. Một nghìn quân của Câu Tiễn còn làm nên việc lớn, huống hồ lực lượng của ta đang hùng hậu, chỉ tạm lui binh để thực hiện đại kế mà thôi. Tuy nhiên, giá trị của hai câu thơ này không dừng lại ở đó, cái chính là nó đã tạo ra một cái nhìn triết học mang tính biện chứng sâu sắc. Từ chiều sâu suy tưởng, có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng một sự kiện Cối Kê sẽ lặp lại, không phải ở Trung Hoa thời Xuân Thu mà ở nước Đại Việt thời Trần. Trong hoàn cảnh nguy khốn mới thấy hết được bản lĩnh của Trần Nhân Tông – vị chỉ huy tối cao của toàn dân tộc. Giữa lúc thế giặc đang mạnh, lòng người không yên, con người ấy không mảy may nao núng, trái lại vẫn bình tĩnh, tự tin và nhận định tình hình một cách sáng suốt. Bàn về hai câu thơ trên, Nguyễn Huệ Chi cho rằng “nếu Trần Quốc Tuấn bày tỏ sự thấy (thắng lợi) bằng cái cách của con nhà tướng, đem đầu ra đánh cược với Trần Thánh Tông, thì Trần Nhân Tông lại thể hiện nó bằng tầm bao quát tinh xác tương quan lực lượng trên khắp mọi mặt trận khi đó, cả trước mặt mình và khuất xa sau lưng mình. Chưa nói đến đức bình tĩnh hiếm có, chỉ nội dung của lời thông báo cũng đủ chứng tỏ năng lực của một con người lãnh đạo kì tài” (1)
Sau khi cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi, Trần Nhân Tông cùng quần thần hành lễ bái yết tại Chiêu Lăng (Lăng vua Trần Thái Tông). Nhìn con ngựa đá lấm bùn, ông xúc cảm làm bài thơ:
Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện kim âu
(Xã tắc hai phen chồn ngựa đá
Non sông nghìn thuở vững âu vàng)
Bài thơ chỉ hai câu mà trở thành danh thi, lưu truyền vạn thuở. Nó không đơn thuần khẳng định sức mạnh nội lực của dân tộc hay niềm vui chiến thắng mà còn thể hiện sự suy nghiệm sâu sắc cùng với cái nhìn quán thông kim cổ, giúp ta nhận ra được sự trường cửu của dân tộc. Hai câu thơ chứa đựng trong nó sự tồn tại đối xứng và chuyển hóa cho nhau giữa các khái niệm đối lập: “chiến tranh” và “hòa bình”, “động” và “tĩnh”. Chiến tranh trong một lúc, hòa bình là thiên thu. Cái động trong thoáng chốc, cái tĩnh là vĩnh hằng. Điều đặc biệt là để tạo ra nền hòa bình muôn thuở thì phải chịu gian lao trong chiến tranh. Để có cái tĩnh thì phải chuyển hóa nó từ cái động. Từ cái nhìn biện chứng, nhà thơ khái quát thành một nhận xét về dân tộc: tuy phải nhiều phen binh lửa nhưng sẽ mãi mãi vững bền.
Một lần khác về thăm Long Hưng, trông thấy vẻ uy nghi đường vệ của lăng Thái Tông, một tứ thơ hào sảng phát khởi trong lòng vị hoàng đế:
Tì hổ thiên môn túc
Y quan thất phẩm thông
Bạch đầu quân sĩ tại
Vãng vãng thuyết Nguyên Phong
(Xuân Nhật yết Chiêu Lăng)
Dịch nghĩa:
(Nghìn cửa quân tì hổ uy vũ,
Các quan thất phẩm áo mũ đầy đủ.
Quân sĩ có người đầu bạc vẫn còn.
Thường thường kể chuyện thời Nguyên Phong)
(Ngày xuân thăm Chiêu Lăng)
Những lời thơ mang khẩu khí của bậc đế vương anh hùng, toát lên vẻ đẹp hùng tráng và lãng mạn. Từ vẻ tôn nghiêm và uy vũ của đế lăng trong thực tại, qua câu chuyện của “người lính giá đầu bạc”, tác giả như làm sống lại không khí hào sảng, oanh liệt lúc Nguyên Phong (vua Trần Thái Tông) trực tiếp xông pha trận mạc, qua đó thể hiện lòng tự hào dân tộc và lòng nhớ ơn tổ tiên sâu sắc.
Ngoài những bài thơ trên đây, không tìm thấy trong thơ Trần Nhân Tông bài thơ chiến trận nào nữa. Có thể do ông không sáng tác nhiều. Cũng có thể tác phẩm của ông bị thất tán do chủ trương thủ tiêu văn hóa của giặc Minh đầu thế kỉ XV. Song cần thấy rằng, chuyện sáng tác nhiều hay ít không quan trọng trong địa hạt của thi ca. Cái quan trọng là với những vần thơ ít ỏi như thế, Trần Nhân Tông đã thể hiện được hào khí thời đại và vẻ đẹp tráng lệ của con người thời Trần – những con người mang trong mình tinh thần Đông A.
Hồ Tấn Nguyên Minh
(GV Trường THPT chuyên Lương Văn Chánh, Phú Yên)