Dưới đây là bản lược dịch bài viết của Karen K. Ho
‘Đứa trẻ vàng’
Bà Bích Hà và ông Huei Hann Pan là những tấm gương điển hình cho câu chuyện lập nghiệp thành công của người nhập cư ở Canada. Ông Hann học tập và lớn lên ở Việt Nam. Ông sang Canada vào năm 1979. Bà Bích cũng là dân nhập cư. Họ cưới nhau ở Toronto, rồi sinh sống ở Scarborough. Họ có 2 con, Jennifer sinh năm 1986 và Felix, sinh năm 1989. Hai vợ chồng họ làm việc trong một nhà máy sản xuất phụ tùng ô tô ở Aurora và sống một cuộc đời đạm bạc.
Mong mỏi lớn nhất của họ là Jennifer và Felix cũng làm việc chăm chỉ như bố mẹ để lập nghiệp trên đất Canada. Họ đăng ký cho Jennifer học piano từ năm 4 tuổi và cô con gái đã cho thấy những tiềm năng. Trước khi vào tiểu học, nhà cô đã chất đầy những giải thưởng.
Bố mẹ cô lại cho cô học trượt băng nghệ thuật. Họ kỳ vọng con gái sẽ thi đấu ở những cuộc thi cấp quốc gia. Họ đặt mục tiêu Thế vận hội mùa đông 2010 ở Vancouver cho Jennifer cho tới khi cô bị đứt dây chằng đầu gối. Có những năm học tiểu học, Jennifer tập trượt băng và về nhà lúc 10 giờ đêm, làm bài tập về nhà cho tới nửa đêm. Khi áp lực ngày càng đè nặng, cô bắt đầu dùng dao cứa tay.
Năm tốt nghiệp lớp 8, Jennifer mong mình sẽ được xướng tên thủ khoa, sẽ thu về một loạt huy chương nhờ thành tích học tập xuất sắc. Nhưng cô chẳng nhận được gì cả. Danh hiệu thủ khoa không thuộc về Jennifer. Cô sững sờ. Cố gắng để làm gì nếu như không ai thừa nhận nỗ lực của mình? Và thay vì tỏ ra thất vọng, cô thể hiện cái mà cô gọi là “chiếc mặt nạ vui vẻ” với bất cứ ai hỏi về chuyện đó.
Nếu ai để ý sẽ thấy Jennifer có vẻ khó gần, nhưng tôi thì không bao giờ thấy điều đó. Tôi học kém cô ấy một lớp ở Trường cấp hai Công giáo Mary Ward, phía bắc Scarborough. Đó là một cộng đồng hoàn hảo cho một học sinh như Jennifer.
Tham gia nhiều hoạt động của trường, hay cười, giọng nói cao vút, cô hòa nhập được với tất cả mọi người: nam sinh, nữ sinh, học sinh châu Á, học sinh da trắng, học sinh giỏi thể thao, những con mọt sách, những kẻ thích nghệ thuật. Ngoài giờ học ở trường, Jennifer còn tham gia bơi lội và luyện tập wushu.
Với chiều cao hơn 1,7m, Jennifer cao hơn hầu hết các nữ sinh châu Á ở trường, xinh đẹp nhưng vô cùng giản dị. Cô hiếm khi trang điểm, người nhỏ nhắn, đeo cặp kính tròn có dây, chẳng sành điệu mà cũng chẳng đắt tiền. Jennifer để tóc thẳng, không kiểu cách.
Jennifer và tôi đều chơi sáo, nhưng cô ấy ở trong ban nhạc cấp cao, còn tôi mới ở mức cơ bản. Khi trò chuyện, cô ấy có vẻ luôn tập trung vào khoảnh khắc. Sau đó, tôi phát hiện ra rằng phong thái tự tin và thân thiện của Jennifer chỉ là bề ngoài.
Bên trong cô ấy là cảm giác thiếu tự tin, nghi ngờ bản thân và xấu hổ. Khi cô ấy không phải là người về nhất các cuộc thi trượt băng, cô ấy đã cố giấu sự thất vọng của mình, không cho bố mẹ biết, không muốn làm họ đã thất vọng lại thêm lo lắng.
Bà Bích nhận ra có điều gì đó không ổn. Bà thường động viên con gái vào ban đêm khi ông Hann đã đi ngủ. Bà nói: “Con biết rằng tất cả những gì bố mẹ muốn ở con là chỉ cần cố gắng hết sức mình mà”.
Sự trượt dốc
Nếu như hồi tiểu học Jennifer luôn dẫn đầu thì đến giữa năm lớp 9, cô chỉ đạt khoảng 70% ở tất cả các môn, ngoại trừ môn nhạc là vẫn xuất sắc. Bằng cách dùng những bảng báo cáo kết quả học tập cũ, kéo, keo và máy photocopy, Jennifer đã làm giả những bản báo cáo kết quả học tập toàn điểm A. Vì các trường đại học không xét điểm lớp 9 và lớp 10 khi xét tuyển nên cô tự an ủi mình rằng chuyện này cũng chẳng ảnh hưởng gì.
Ông Hann là một “ông bố Hổ cổ điển” đúng nghĩa. Vợ chồng ông đón Jennifer ở trường về, theo dõi các hoạt động ngoại khóa và cấm cô tham gia các lớp học nhảy – cái mà ông Hann cho là chẳng được tích sự gì. Tiệc tùng bạn bè cũng bị giới hạn, chuyện yêu đương thì không được phép cho tới khi học xong đại học.
Khi được phép qua đêm ở nhà một người bạn, bà Bích và ông Hann chỉ rời khỏi đó khi đêm đã xuống và đón cô vào sáng sớm hôm sau. Năm 22 tuổi, Jennifer chưa từng đi bar, chưa từng say rượu, chưa từng tới nhà bạn hoặc đi du lịch mà không có gia đình đi cùng.
Có lẽ, sự bao bọc thái quá của họ xuất phát từ tình yêu thương và sự lo lắng. Nhưng đối với Jennifer và bạn bè cô, đó là sự bạo ngược và áp đặt. “Họ hoàn toàn kiểm soát” – một người bạn cũ của Jennifer nói. “Họ đối xử với cô ấy như rác rưởi suốt một thời gian dài”.
Khi tôi càng biết nhiều về cách nuôi dạy hà khắc của bố mẹ Jennifer, tôi càng cảm thông với cô hơn, vì tôi cũng lớn lên trong một gia đình nhập cư tới từ châu Á. Bố mẹ tôi tới từ Hồng Kông với hai bàn tay trắng và bố tôi cũng đòi hỏi nhiều ở tôi. Bố muốn tôi đứng đầu lớp, đặc biệt là môn toán và khoa học.
Tôi luôn phải vâng lời và gương mẫu. Ông muốn tôi giống như một chiếc cúp mà ông có thể mang đi khoe. Những cái ôm là thứ xa xỉ trong gia đình tôi. Tiệc sinh nhật và quà Noel đã chấm dứt từ năm tôi 9 tuổi.
Tôi học giỏi toán và trượt băng, nhưng bố chẳng bao giờ khen tôi ngay cả khi tôi rất xuất sắc – giống như ông bà tôi đã làm với bố mẹ tôi. Theo văn hóa của chúng tôi thì khen ngợi sẽ làm hư con cái và khiến chúng chẳng còn những tham vọng.
Dối trá chồng chất
Jennifer gặp Daniel Wong năm lớp 11. Cậu ta lớn hơn Jen một tuổi, ngốc nghếch và thích giao du. Daniel thường xuyên tới nhà tôi chơi. Cậu chơi kèn cho ban nhạc của trường và cho một ban nhạc diễu hành bên ngoài. Mùa hè năm đó, họ bắt đầu hẹn hò.
Bố mẹ Jennifer Pan (trái) và ngôi nhà của họ ở số 238 Helen Avenue |
Trong khi bố mẹ Jennifer vẫn ngỡ rằng con gái là một học sinh toàn điểm A thì thực tế, Jennifer hầu như nhận toàn điểm B – một thứ không thể chấp nhận ở gia đình cô. Vì thế, Jennifer tiếp tục làm giả kết quả học tập suốt những năm học phổ thông. Cô nhận được thư trúng tuyển sớm của ĐH Ryerson, nhưng sau đó lại trượt môn tính toán vào năm cuối và không thể tốt nghiệp phổ thông. ĐH Ryerson thu hồi lại quyết định của mình.
Sợ bố mẹ phát hiện ra sự thật, cô nói dối rằng sẽ nhập học Ryerson vào mùa thu. Cô nói, dự định sẽ học khoa học 2 năm ở đây, sau đó chuyển sang ngành Dược ĐH Toronto – chuyên ngành mà bố cô thích. Ông Hann rất mừng nên mua cho con gái một chiếc máy tính xách tay. Jennifer sưu tầm sách giáo khoa vật lý và sinh học cũ, mua đồ dùng học tập để che mắt bố mẹ.
Trong khi ông bà Hann tưởng con gái tới trường đại học thì thực ra cô tới các thư viện công. Ở đây, cô tìm kiếm thông tin trên mạng để điền chú thích chi chít vào những cuốn sách giáo khoa. Thời gian rảnh rỗi, Jennifer đi uống cà phê và thăm Daniel ở ĐH York – nơi cậu ta được nhận.
Thỉnh thoảng, cô đi dạy piano, làm nhân viên pha chế ở một nhà hàng pizza mà Daniel làm quản lý bếp. Ở nhà, ông Hann thường hỏi con gái chuyện học hành, nhưng bà Bích bảo ông không nên can thiệp. “Hãy để con bé được là chính mình” – bà thường nói vậy.
Để câu chuyện logic, Jennifer nói dối cả bạn bè. Cô thậm chí còn khuếch đại cách can thiệp của bố cô. Jen kể với một người bạn rằng bố cô thuê cả một thám tử tư để theo dõi mình.
4 năm sau, theo lý thuyết là Jen tốt nghiệp ĐH Toronto. Cô và bạn trai Daniel thuê người làm một bảng điểm giả toàn điểm A. Tới lễ tốt nghiệp, Jen bảo với bố mẹ rằng vì lớp quá đông nên mỗi sinh viên chỉ có một vé mời người thân. Vì không muốn chỉ có bố hoặc mẹ nên cô đã nhường vé cho bạn.
Jen đã phải đấu tranh tư tưởng rất nhiều để đối phó với những lời nói dối. “Tôi thử nhìn bản thân với tư cách là một người thứ ba. Tôi không thích con người mà tôi nhìn thấy, nhưng lý trí bắt tôi phải tiếp tục nói dối. Nếu không tôi sẽ mất tất cả mọi thứ đã từng rất có ý nghĩa với mình”.
Sự thật
Sau khi giả vờ tốt nghiệp, Jen nói với bố mẹ rằng cô sẽ làm tình nguyện ở khoa xét nghiệm máu, Bệnh viện SickKids. Công việc này khiến cô phải trực đêm vào các ngày thứ Sáu và cuối tuần, nên cô phải ngủ ở chỗ bạn nhiều hơn. Tuy nhiên, ông Hann phát hiện ra một điều lạ là Jen không hề có đồng phục và chìa khóa của Bệnh viện SickKids.
Ngày hôm sau, ông nhất quyết đưa con gái tới bệnh viện, rồi hướng dẫn vợ theo chân con gái vào trong. Biết bị mẹ theo dõi, Jen trốn vào khu vực đợi vài tiếng cho đến khi bố mẹ cô rời khỏi đó. Nhưng sáng hôm sau, họ gọi cho bạn cô hỏi xem đêm qua cô có ở đó không và phát hiện ra sự thật. Jen thừa nhận mình không hề làm tình nguyện ở đây và cũng chưa từng học ngành Dược ĐH Toronto, mà cô ở cùng Daniel.
Bà Bích than khóc. Ông Hann nổi giận. Ông đuổi Jen ra khỏi nhà, nhưng bà Bích thuyết phục ông cho con gái ở lại. Họ tịch thu điện thoại, laptop của cô trong 2 tuần, chỉ được phép dùng khi có mặt bố mẹ và thỉnh thoảng họ bất ngờ kiểm tra tin nhắn của cô. Họ cấm cô gặp Daniel. Họ bắt cô xin nghỉ tất cả các công việc ngoại trừ việc dạy piano và bắt đầu theo dõi số km trên đồng hồ xe hơi.
Jen viết trên Facebook: “Sống trong nhà này giống như bị quản thúc” hay “Không ai biết mọi thứ về tôi… Tôi thích là người bí ẩn”.
Cuối cùng thì Jen cũng đăng ký học nốt môn tính toán để có thể tốt nghiệp phổ thông. Bố mẹ yêu cầu Jen nộp hồ sơ vào đại học, rằng cô vẫn có thể trở thành một kỹ thuật viên phòng thí nghiệm hoặc một y tá, đồng thời yêu cầu cô cắt mọi liên lạc với Daniel.
Jen phản đối yêu cầu của bố mẹ, nhưng Daniel cảm thấy mệt mỏi vì cứ phải lén lút yêu đương với cô. Cậu đề nghị chia tay, khiến Jen vô cùng đau khổ. Không lâu sau, Jen biết tin Daniel đang qua lại với một cô gái tên là Christine.
Thảm kịch
Từ trái sang: David Mylvaganam, Eric Carty, Daniel Wong, Jennifer Pan và Lenford Crawford (không có trong ảnh) mang tội danh giết người cấp độ 1 |
Mùa xuân năm 2010, Jennifer gặp lại Andrew Montemayor – một người bạn học chung tiểu học. Khi Jen kể cho Montemayor về quan hệ xấu giữa cô và bố, Montemayor thú nhận rằng cậu ta từng có ý định giết bố mình. Thế rồi, ý tưởng này bắt đầu nhen nhóm trong đầu Jen. Cô bắt đầu tưởng tượng cuộc sống của mình sẽ tốt đẹp đến chừng nào nếu không có bố cô.
Montemayor giới thiệu Jen với bạn cùng phòng Ricardo Duncan. Theo Jen nói thì cô đã đưa cho Ducan 1.500 USD tiền kiếm được từ dạy piano để cậu ta giết bố mẹ cô. Thời gian và địa điểm cô sẽ gọi bàn bạc sau. Nhưng sau đó, Duncan không trả lời điện thoại của Jen. Jen cho rằng mình đã bị lừa. Trong khi đó, Ducan khai rằng cậu chỉ nhận của Jen 200 USD và đã trả lại.
Cảnh sát cho biết, thời điểm đó Daniel và Jen đang quay lại với nhau và họ đã nảy ra một ý định kinh khủng hơn: họ sẽ thuê người “xử” ông Hann, bà Bích, sau đó nhận số tiền thừa kế khoảng 500.000 USD, sống cùng nhau mà không bị ngăn cản. Daniel giới thiệu Jen với một người quen là Lenford Crawford.
Tối ngày 8/11, Jen xem phim trên giường, trong khi ông Hann đọc báo tiếng Việt dưới sảnh trước khi đi ngủ vào khoảng 8 giờ 30 phút. Khoảng 9 giờ 30 phút, bà Bích đi học khiêu vũ về. Bà thay bộ đồ ngủ, ngâm chân. Lúc 9 giờ 35 phút, một người đàn ông tên David Mylvaganam – bạn của Crawford gọi cho Jennifer. Họ nói chuyện khoảng gần 2 phút. Jen xuống nhà chúc bố mẹ ngủ ngon và như cô thừa nhận sau đó là cô không khóa cửa trước.
Khoảng hơn 10 giờ, Crawford, Mylvaganam và một người khác là Eric Carty bước vào cửa trước. Cả ba đều mang theo súng. Một tên chĩa súng vào bà Bích, trong khi một tên khác lên tầng, dí súng vào mặt ông Hann và yêu cầu ông ra khỏi giường, xuống tầng, rồi đi vào phòng khách.
Trên lầu, Carty đối mặt với Jen bên ngoài cửa phòng ngủ. Jen khai, Carty trói tay cô ra phía sau bằng dây giày, bắt cô đi vào bên trong, giao nộp gần 2.500 USD tiền mặt, sau đó vào phòng ngủ của bố mẹ cô lấy 1.100 USD mẹ cô đặt ở đầu giường, tiếp đó vào bếp tìm ví của bà.
“Bọn chúng vào nhà bằng cách nào vậy?” – bà Bích hỏi ông Hann bằng tiếng Quảng Đông. “Tôi không biết, tôi đang ngủ” – ông Hann đáp. “Câm mồm! Chúng mày nói nhiều quá!” – một tên quát. “Tiền để đâu?” Ông Hann nói chỉ có 60 đô trong ví. “Nói láo” – một tên trả lời. Bà Bích bắt đầu khóc lóc, cầu xin đừng làm con gái bà bị thương. Một trong những kẻ xâm nhập nói: “Yên tâm, cô ta rất tử tế và sẽ không bị thương”.
Tên Carty đưa Jen lên lầu, trói hai tay cô vào lan can, trong khi Mylvaganam và Crawford đưa bà Bích và ông Hann xuống tầng hầm, lấy chăn trùm đầu họ. Chúng bắn ông Han 2 phát, một vào vai, một vào mặt. Ông gục xuống sàn. Chúng bắn bà Bích 3 phát vào đầu, bà chết ngay lập tức. Chúng bỏ trốn bằng cửa sau.
Jen bằng cách nào đó lấy được điện thoại từ túi quần, gọi 911 (mặc dù sau đó cô khai là tay bị trói ra sau). May mắn thay, ông Hann tỉnh dậy trên vũng máu với thi thể của vợ bên cạnh.
Ông bò lên tầng một. Jen đang trên tầng hai hét xuống rằng cô đã gọi 911. Ông Hann bò ra ngoài cửa, hét lên điên dại. Hàng xóm kéo đến. Cảnh sát và xe cứu thương đến trong vài phút sau. Ông Hann được đưa tới một bệnh viện gần đó.
Gia đình
Jennifer Pan |
Cảnh sát lấy lời khai của Jen 2 lần trước khi ông Hann tỉnh dậy sau 3 ngày hôn mê và họ bắt đầu nhận ra những điểm đáng ngờ. Chiếc chìa khóa xe Lexus của ông Hann nằm ngay chỗ dễ thấy. Nếu đây thực sự là một vụ giết người cướp của, tại sao chúng không lấy chiếc xe? Và tại sao chúng không dùng xà beng để đột nhập, hay một chiếc ba lô để đựng chiến lợi phẩm hay những chiếc dây để kiểm soát nạn nhân? Và điểm quan trọng nhất, tại sao chúng bắn 2 nhân chứng mà lại để cho một nhân chứng không hề hấn gì? Từ những nghi ngờ đó, cảnh sát đã cho người theo dõi động thái của Jennifer.
Sau những cuộc hỏi cung, điều tra và phân tích các cuộc gọi, tin nhắn, cảnh sát bắt giữ Jennifer, Daniel, Mylvaganam, Carty và Crawford. Cả 5 bị buộc tội giết người cấp độ một.
Jen gần như không bộc lộ cảm xúc gì khi nhận bản án, nhưng khi báo chí rời khỏi tòa, cô òa khóc một cách run rẩy và không kiểm soát.
“Khi tôi mất vợ, cũng là lúc tôi mất con gái. Tôi thấy mình như mất gia đình… Một số người nói rằng tôi nên thấy may mắn vì đã sống sót, nhưng tôi thấy như mình đã chết” – ông Hann nói. Hiện ông không thể làm việc do bị thương nặng. Ông thường xuyên lo âu, mất ngủ và mơ ác mộng.
Với tôi, rất khó để viết ra câu chuyện này. Rất phức tạp khi viết về một vụ giết người mà những người bạn cũ của bạn có liên quan. Năm ngoái, có vài lần tôi tới thăm Daniel ở trại cải tạo. Tôi hỏi cậu ấy rằng đã bao giờ cậu ấy tự hỏi nếu như mọi thứ chỉ khác đi một chút, cậu sẽ không phải ngồi tù.
Cậu ấy lắc đầu, nói rằng nếu cứ nghĩ như thế sẽ làm người ta phát điên. Daniel nói, điều tốt nhất cho cậu ấy bây giờ là tập trung vào thực tế: cậu ấy đang ngồi tù, và cậu ấy phải làm những điều tốt nhất với thực tế này. Cũng như Jennifer và các bị can khác, Daniel đang có ý định kháng cáo. Nếu kháng cáo thất bại, họ sẽ được tạm tha có điều kiện vào năm 2035. Lúc đó Jennifer 49 tuổi, Daniel 50 tuổi.
Tôi tin rằng ở một góc độ nào đó, Jennifer vẫn yêu bố mẹ mình. “Tôi cần gia đình ở cạnh. Tôi muốn họ chấp nhận tôi. Tôi không muốn sống một mình… Tôi không muốn họ bỏ rơi tôi” – Jennifer nói khi đứng trước tòa. Cô đã phát cuồng khi gọi 911, khi nghe tiếng súng nổ và khóc nức nỏ khi đứng trước tòa. Nhưng làm thế nào để tin một kẻ nói dối? Jennifer đã nói dối trong cả 3 lần khai với cảnh sát.
Một số người cho rằng cha mẹ cô mới là người có lỗi. “Tôi cho rằng chính họ đã đẩy cô ấy tới thảm kịch này” – một người bạn của Jen nói. “Thành thực mà nói tôi không nghĩ Jennifer là một kẻ ác”. Hồi tháng 2 năm nay, tôi đã đề nghị được phỏng vấn Jennifer và Daniel, nhưng họ từ chối.
Thế là tôi không thể biết được những người bạn cùng trường của mình đang nghĩ gì, đang cảm thấy thế nào và hi vọng điều gì. Và có thể sẽ không bao giờ tôi biết được điều đó.