Ở nước ta, rau càng cua mọc hoang khắp mọi nơi, quanh các khu dân cư, chân tường, trên chậu cảnh... Rau càng cua dùng ăn sống trộn dầu giấm đường, xào, nấu canh suông hoặc với tôm nõn, thịt lợn, cho vào cháo nóng, lẩu, đặc biệt ăn sống với ếch chiên, thịt bò xào tái, lươn om; rau càng cua làm dầu giấm với đậu phụ chiên giòn, gỏi càng cua... là những món ăn hiện nay được rất nhiều người ưa chuộng.
Rau càng cua dùng dưới dạng thức ăn phòng chữa cảm mạo, ho hen, ăn không tiêu, tăng huyết áp. Để tăng hiệu quả trị bệnh, phải ăn cả hoa, quả của nó.
Theo kinh nghiệm dân gian, rau càng cua tính chua cay, hàn, có tác dụng bổ âm, dưỡng huyết, thanh nhiệt giải độc, thông ứ, chỉ thống, lợi đại tiểu tiện. Chữa phế nhiệt, miệng khô khát, chứng huyết nhiệt sinh lở ngứa, mụn nhọt và chứng đau mỏi cơ khớp do phong nhiệt.
Chữa phế nhiệt, viêm họng, khô cổ khản tiếng: rau càng cua rửa sạch nhai ngậm hoặc xay nước uống ngày 50 - 100g.
Chữa chứng tiêu khát (đái tháo đường) có kèm chứng miệng khô khát, táo bón: rau càng cua rửa sạch 100g bóp giấm, chanh, thịt ếch chiên bột 100g ăn tuần vài lần.
Chữa thiếu máu: rau càng cua 100g rửa sạch bóp giấm, thịt bò, cho gia vị vừa đủ xào chín tới trộn đều ăn vài lần.
Chữa tiểu dắt, tiểu khó: rau càng cua ăn sống hoặc nấu nước uống ngày 150 - 200g.
Chữa đau lưng cơ co rút (nhiệt độc nhập kinh thận): rau càng cua sắc uống mỗi ngày 50 - 100g.
Chữa nhiễm khuẩn đầu ngón tay (chín mé): rau càng cua 100 - 150g sắc uống trong, bã đắp ngoài.
Chữa ngoài da khô sần, mụn nhọt lở ngứa, vết thương lâu lành: rau càng cua ăn sống hoặc xay nước uống, giã đắp ngoài.