Điều quan trọng luôn nằm ở chất lượng công trình khoa học và đạo đức của người làm nghiên cứu.
Phù hợp với điều kiện của Việt Nam
* PGS có nhận xét gì về Quy chế tuyển sinh, đào tạo trình độ tiến sĩ mà Bộ GD&ĐT mới ban hành?
- Cho đến hiện tại, các cơ sở giáo dục đại học (GDĐH) vẫn đang áp dụng Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ được ban hành kèm theo Thông tư số 08/2017/TT-BGDĐT ngày 4/4/2017 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (Quy chế 08)
Quy chế này có nhiều điểm mới, đột phá. Tuy nhiên, sau 4 năm thực hiện cũng cần có sự bổ sung, chỉnh sửa để phù hợp với tình hình thực tế, bảo đảm nâng cao chất lượng của đào tạo tiến sĩ trong nước, tiệm cận với các tiêu chuẩn đào tạo tiến sĩ của khu vực và trên thế giới; đồng thời phù hợp với điều kiện của Việt Nam; bảo đảm thực hiện những quy định của Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học (Luật số 34) và Nghị định số 99/2019/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết và thi hành một số điều của Luật này.
Qua 4 năm thực hiện có thể thấy: Số lượng tuyển sinh giảm rõ rệt, trung bình cả nước chỉ đạt được khoảng 35% chỉ tiêu tuyển sinh so với những năm 2015. Thời gian đào tạo tập trung 3 năm chưa phù hợp với một số ngành đòi hỏi cần thời gian cho hoạt động nghiên cứu.
Chuẩn đầu vào tương đương IELTS 5.0 là rào cản cho ứng viên các ngành kỹ thuật, công nghệ. Yêu cầu đầu ra cần có bài báo quốc tế chưa phù hợp với một số ngành xã hội, lý luận…
Trên cơ sở đó, việc đưa ra quy chế mới là cần thiết, khắc phục điểm chưa phù hợp, nhưng vẫn đảm bảo kế thừa những quy định mang tính tích cực và khả thi, ổn định và gắn với thực tế triển khai hoạt động đào tạo trình độ tiến sĩ.
* Theo PGS những điểm mới của Quy chế có góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, thúc đẩy “nghiên cứu thật” và có thuận lợi hơn cho công tác tổ chức, quản lý đào tạo tiến sĩ của nhà trường?
Theo tôi, Quy chế mới gọn gàng, giảm những công việc sự vụ, hình thức, tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở GDĐH.
Cơ sở GDĐH đưa ra những yêu cầu, quy định phù hợp nhằm thu hút người học tài năng, hỗ trợ người học, chủ động trong tuyển sinh, xây dựng và triển khai chương trình đào tạo phù hợp, dựa trên thế mạnh của cơ sở GDĐH; đồng thời xây dựng đội ngũ chuyên gia, giảng dạy, hướng dẫn tốt nhất, chủ động lựa chọn chuyên gia đánh giá luận án phù hợp nhằm nâng cao chất lượng luận án, công trình nghiên cứu của NCS.
Cơ sở GDĐH xem xét từng trường hợp người học, từng lĩnh vực để xây dựng kế hoạch học tập, nghiên cứu phù hợp, nhằm nâng cao tỷ lệ thành công cho người học.
Khuyến khích tạp chí trong nước phát triển
* Liệu việc công nhận bài báo trên tạp chí trong nước khi đánh giá kết quả nghiên cứu, đào tạo có thể xem là 1 trong những giải pháp góp phần thúc đẩy tạp chí trong nước không?
- Chất lượng đào tạo nằm ở nhiều yếu tố: bên cạnh thầy giỏi, cơ sở vật chất tốt, đầu tư cho nghiên cứu chính sách thu hút người học giỏi, chương trình đào tạo tiên tiến… cũng rất cần chú ý đến: Chất lượng công trình nghiên cứu; Chất lượng luận án; Sản phẩm khoa học công nghệ (bài báo, phát minh sáng chế, giải pháp hữu ích, sản phẩm áp dụng thực tiễn…)
Nhiều quốc gia coi trọng sản phẩm bài báo khoa học, lấy số lượng và chất lượng bài báo để làm chuẩn đầu ra. Điều này rất nên khuyến khích ở Việt Nam, vì người làm nghiên cứu, công bố khoa học tức là góp phần thúc đẩy khoa học phát triển, đưa kết quả nghiên cứu ra áp dụng thực tiễn, đem lại hiệu quả và lợi ích cho xã hội.
Như đã đề cập ở trên, việc đăng bài ở tạp chí trong nước cũng nên được khuyến khích, giúp cho tạp chí trong nước phát triển và tăng uy tín trên trường quốc tế.
* Vậy PGS có nhận xét gì về hoạt động và chất lượng nghiên cứu của nghiên cứu sinh trong giai đoạn qua? Chất lượng nghiên cứu thể hiện ở những tiêu chí, nội dung, kết quả nào?
Trong 5 năm trở lại đây, hầu hết các cơ sở GDĐH trong nước đã quan tâm, coi trọng và đầu tư cho đào tạo trình độ tiến sĩ để nâng cao chất lượng đào tạo. Các cơ sở coi trọng chất lượng đầu vào, đầu ra của NCS, lựa chọn chuyên gia, giáo viên người hướng dẫn có chuyên môn tốt, có kinh nghiệm để tham gia đào tạo, hướng dẫn NCS.
Các cơ sở đã có những chiến lược như đầu tư cơ sở vật chất, phục vụ nghiên cứu, cấp kinh phí thực hiện nghiên cứu, hình thành nhóm nghiên cứu, hợp tác trao đổi khoa học với nước ngoài…
Lấy ví dụ: tại Trường ĐH Bách khoa Hà Nội, trung bình hàng năm có khoảng 75 NCS bảo vệ, mỗi nghiên cứu sinh có 5 đến 6 công trình công bố. Tỷ lệ công bố trên các tạp chí ISI/Scopus đạt trên 35%, tỷ lệ bảo vệ thành công đạt trên 70 %.
Nhiều NCS khi bảo vệ có trên 2 bài báo ISI, đăng bài trên tạp chí Q1 có chỉ số IF>3. Đây là những dấu hiệu tích cực cho thấy, chất lượng nghiên cứu đã dần tiệm cận chất lượng của các trưởng đại học danh tiếng trong khu vực và thế giới.
Chất lượng nghiên cứu thể hiện qua chất lượng đề tài, sản phẩm khoa học của NCS như: luận án có tính khoa học, thực tiễn cao, NCS có ít nhất 1 bài báo đăng trên các tạp chí ISI/Scopus, có sở hữu trí tuệ, có phát minh, sáng chế, giải pháp hữu ích, và có cả sản phẩm thực tiễn mang lại hiệu quả cao cho xã hội. Cũng phải kể đến, việc NCS tốt nghiệp đúng hạn, hoàn thành chương trình nghiên cứu đúng theo kế hoạch được giao.
Xin cảm ơn PGS!