Linh thiêng giấy bản
Bất kể gia đình người Mông nào ở Mường Lát (Thanh Hóa) dịp cuối năm cũng treo mảnh giấy bản nhỏ có trang trí 3 nhúm lông gà.
Theo người dân ở đây, gà sau khi cắt tiết sẽ được lấy lông nhúng vào bát tiết rồi dán lên giấy bản treo trên bờ tường, bên cạnh giường thờ.
Ba nhúm lông gà ấy tượng trưng cho thổ công, thổ địa và tổ tiên trong gia đình. Khi xưa, lúc ông tổ người Mông còn sống, họ lấy tóc của ông dính vào giấy bản, khi ông tổ mất thì lấy lông gà thay thế.
Giấy bản là thứ giấy linh thiêng, được chính tay những người phụ nữ trong gia đình làm nên. Bao đời nay, làm giấy bản vào dịp Tết đến xuân về được cho là phong tục tâm linh không thể thiếu trong đời sống văn hóa của đồng bào Mông.
Làm giấy bản cũng như báo hiệu một năm mới đã cận kề. Đồng bào Mông không biết phong tục có từ bao giờ, chỉ biết nó được truyền từ đời này sang đời khác.
Ông Lầu Văn Ly, Chuyên viên Phòng Văn hóa huyện Mường Lát, là người Mông sống ở xã Pù Nhi nên ông hiểu rất rõ phong tục này của dân tộc mình. Ông cũng cho biết, gia đình từ thời ông bà đến bố mẹ rồi giờ đến vợ ông cũng vẫn giữ nguyên phong tục làm giấy truyền thống này. Giấy bản là vật tâm linh không thể thiếu của người Mông, các giấy mà sản xuất bình thường là không được mà phải là giấy được chính những người phụ nữ trong gia đình người Mông làm nên. Đồng bào Mông vẫn nói, thấy giấy bản là thấy Tết về là vậy.
Bởi vậy, năm nào cũng thế, cứ vào khoảng từ đầu tháng Chạp, phụ nữ Mông lại rủ nhau đeo gùi lên rừng tìm nguyên liệu. Họ phải mất một tuần, ngày nào cũng đi rừng mới có thể lấy đủ nguyên liệu làm giấy. Ngoài nguyên liệu chính là cây giang, người dân còn tìm nhiều cây nhớt, lấy phần vỏ đủ cho tỷ lệ 70% cây giang hoặc vầu và 30% vỏ cây có nhớt.
Ông Lâu Văn Kỷ, người Mông ở xã Pù Nhi cho biết, gần Tết, người Mông sẽ làm giấy bản và giấy này sẽ được sử dụng trong các nghi lễ quan trọng trong gia đình suốt năm đó.
Làm giấy bản là công việc khá nặng nhọc và tỉ mỉ, thế nhưng đây được xem là công việc của phụ nữ, đàn ông không tham gia.
“Ngày Tết, giấy bản sẽ được dán lên giường thờ thay xử ca, trang trí xung quanh nhà cửa, lót bàn thờ cúng tổ tiên, cúng năm hết Tết đến. Người Mông chúng tôi quan niệm, nếu lễ Tết mà không có giấy tự mình làm ra để thờ cúng thì tổ tiên sẽ không nhận.
Giấy bản cũng được cắt thành những miếng nhỏ để làm tiền âm phủ, đốt cho người đã chết hoặc để đốt vía cúng vía. Có khi giấy bản được nhuộm màu đỏ, xanh để giải hạn ốm đau, tai nạn, bài trừ các tệ nạn xã hội.
Màu đỏ là màu máu, màu xanh tượng trưng cho cỏ cây, rừng núi của đồng bào. Giấy dùng treo và để trên bàn thờ cả năm, đến ngày 30 Tết họ sẽ cúng và đốt giấy cũ đi thay bằng giấy mới làm để giải hạn xấu năm cũ”, ông Kỷ lý giải.
Anh Chá Văn Dia (bản Pù Toong, xã Pù Nhi) cho biết: “Giấy bản của gia đình người Mông còn được sử dụng trong lễ cưới hỏi. Gia đình nào chuẩn bị cưới vợ cho con cũng phải treo trên đình màn phòng cưới hình ảnh chiếc ô có trang trí hoa văn xinh đẹp bằng loại giấy bản do chính gia đình làm ra.
Chiếc ô đó mang lại phúc đức che chở và bảo vệ cho con cái họ. Bên trong chiếc ô phải có chén nước để làm vía cho vợ chồng mới cưới. Bởi con người sinh ra ai cũng có hồn có vía nên cần phải có giấy để cúng vía”.
Người Mông làm giấy bản để đón Tết. |
Gian nan làm giấy bản
Vào khoảng đầu tháng Chạp, phụ nữ Mông sẽ tranh thủ thời tiết nắng ráo để làm giấy bản đón Tết. Theo người Mông, làm giấy bản cũng không có một công thức chung nào, để có tờ giấy đẹp, bền thì mỗi gia đình đều có bí quyết riêng.
Tuy nhiên, việc chọn nguyên liệu quyết định đến 80% chất lượng giấy bản. Giang, nứa hoặc vầu phải được tìm những cây óng xanh, không bị sâu. Khi nấu cùng với vỏ cây có nhớt cũng cần để ý canh chừng không để nước cạn.
Khâu cuối cùng của việc làm giấy bản là rải đều hỗn hợp lên khuôn, công đoạn này phụ thuộc nhiều vào thời tiết. Mỗi tấm giấy bản sẽ có kích thước 1,2 - 1,5m, mỗi gia đình sẽ làm 3 - 5 tấm.
“Nếu gia đình nào làm đúng hôm trời khô ráo, phơi được nắng giấy sẽ trắng mịn, không bị xỉn màu. Nếu gặp trời mưa hoặc bữa nồm ẩm, giấy sẽ không đạt yêu cầu”, chị Va Cá Dua - bản Pù Toong, xã Pù Nhi chia sẻ.
Gia đình chị Dua làm giấy bản từ xưa và cũng như bao phụ nữ trong bản, chị học lại từ mẹ và chị em làng xóm. Quy trình để làm ra giấy bản không hề đơn giản.
Nguyên liệu giang, vầu mang về nhà, gọt vỏ xanh, đẽo mắt, rồi chẻ thành thanh mỏng như chiếc đũa, các loại vỏ cây kết dính được rửa sạch sẽ, thêm một ít tro bếp hoặc vôi (cho giấy được trắng đẹp), tất cả bỏ vào nồi nấu.
Thời gian nấu khoảng 13 - 15 giờ đồng hồ, đến khi nguyên liệu mềm, thì vớt ra. Dùng chày hoặc gậy đập cho nhỏ, càng nhỏ càng tốt, rồi cho vào chậu đổ nước quấy kĩ cho bột tan ra, vớt phần bã bỏ đi, khi nào thành bột giấy sệt sệt mịn là được, khuấy đều để trở thành một thứ dung dịch đặc quánh.
Sau đó, phải có một cái khuôn cán giấy, tùy vào nhu cầu sử dụng có thể làm khuôn to hoặc nhỏ, mặt khuôn bằng vải, 4 cạnh nẹp 4 thanh gỗ chắc chắn. Khi đó nguyên liệu đã thành dung dịch đặc sánh rồi, lấy muỗng múc dàn đều dung dịch đó lên mặt khuôn, gạt sao cho đều mỏng (giống như người tráng bánh đa). Sau đó, mang ra nắng phơi khô, kinh nghiệm phơi lúc nào tráng khô thì giấy khô. Cứ thế công việc diễn ra cho đến khi số lượng giấy đã đủ thì dừng lại.
Giấy bản đạt chất lượng là thứ giấy có sắc vàng, soi ra ngoài ánh nắng óng đẹp, thoang thoảng hương thơm của các loại cây rừng. |
Kết quả thành phẩm là tờ giấy bản có màu trắng ngà, trên mặt nổi rõ những sợi tơ tre, bóng, mỏng, dai. Mỗi tờ giấy bản cầm lên tay có sắc vàng, soi ra ngoài ánh nắng óng đẹp, thoang thoảng hương thơm của các loại cây rừng.
“Làm giấy bản thì việc chọn nguyên liệu là quan trọng nhất, phải chọn những loại giang, tre, vầu còn bánh tẻ, óng và đẹp. Trong quá trình ninh cẩn thận để không bị cạn nước, vì rất dễ cháy do nhựa của các cây rừng có nhiều nhớt.
Quá trình giã và lọc phải khéo léo, tỉ mỉ, nếu làm ẩu, lọc sơ sài quá giấy sẽ không mịn, ngược lại lọc kỹ quá sẽ không còn độ kết dính của giấy. Nếu được phơi trong thời tiết nắng to thì giấy sẽ đẹp như ưng ý, nhỡ không may vào trời mưa gió là hỏng mất”, chị Dua tiết lộ.
Được làm nên từ những bàn tay khéo léo của bà con dân tộc Mông, giấy tuy mỏng nhưng dai và bền hơn giấy công nghiệp nhiều. Nếu được bảo quản tốt đến hàng chục năm sau vẫn sử dụng được.