Tạo giống cây khỏe, sạch bệnh
KS Lê Thị Hồng Ngọc, Phó Trưởng phòng Hỗ trợ Công nghệ cây trồng, Trung tâm Ươm tạo doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao TPHCM cho biết, cây sâm cau là loài cây thân thảo, có tên khoa học là Curculigo orchioides Gaertn, thuộc họ Hypoxidaceae. Cây còn có nhiều tên gọi khác là Tiêm mao, Ngải cau, Cồ nốc lan… Do bị khai thác nhiều, sâm cau đã được đưa vào danh mục đỏ cây thuốc Việt Nam.
Ngoài tự nhiên, cây sâm cau được nhân giống chủ yếu từ hạt hoặc bằng thân. Ở các tỉnh miền núi người dân chủ yếu lấy cây non ngoài tự nhiên về trồng. Tuy nhiên, khó khăn của nhân giống truyền thống là hạt có tỷ lệ nảy mầm thấp. Còn nhân giống bằng thân thì mỗi cây giống phải có một phần củ và phần ngọn mới đảm bảo cây có thể sống. Do mỗi cây sâm cau chỉ hình thành một củ chính, vì vậy hệ số nhân giống cũng rất thấp.
Phương pháp nuôi cấy mô giúp khắc phục được những hạn chế trên, tạo ra một lượng lớn cây giống sạch bệnh trong thời gian ngắn. Sau gần một năm bắt tay thực hiện, nhóm nghiên cứu đã nuôi cấy thành công giống cây trong phòng thí nghiệm.
Giống cây được đưa trồng thực nghiệm tại huyện Củ Chi trên diện tích đất 1.000m2. Cây mô được trồng trong túi bầu và đặt trong vườn ươm giúp quen dần với điều kiện tự nhiên. Nhóm xây dựng quy trình trồng sâm cau trong thời gian khoảng một năm là thu hoạch.
Theo KS Ngọc, trong giai đoạn phát triển củ, lượng nước và độ ẩm đất cần được kiểm soát chặt chẽ, đặc biệt vào thời điểm mùa mưa. Củ sâm cau rất dễ bị thối khi bị ngập nước hay đất có độ ẩm quá cao, do đó trong quá trình làm đất cần tạo các rãnh thoát nước và giàn che nắng có thể di chuyển được.
Sau một năm trồng nông dân có thể, tiến hành đào cây, cắt lấy củ, rửa sạch. Sâm cau có thể dùng tươi hoặc sơ chế bảo quản, khối lượng trung bình mỗi củ sâm 60 - 65 g. Hàm lượng saponin đạt 0,54 - 0,68%, flavonoid 0,19 - 0,23% và curculigoside 0,23 - 0,31%.
Sâm cau khi mua tại vườn có giá khoảng 150.000 đồng mỗi kg. Tính theo năng suất trung bình 3,1 tấn cho 1.000 m2 có thể thu nhập khoảng 467 triệu đồng mỗi vụ. Tổng chi phí sản xuất 416 triệu đồng mỗi vụ, giúp nông dân có lợi nhuận hơn 51 triệu đồng. Sau một năm trồng là nông dân có lợi nhuận.
Chứa hoạt chất chống ung thư
KS Lê Thị Hồng Ngọc chia sẻ, sâm cau được trồng trong túi bầu và đặt trong vườn ươm để có thể thích nghi điều kiện tự nhiên. Sau đó, cây sẽ được đem trồng ngoài nhà hậu cấy mô và được chuyển qua khu canh tác trồng. Môi trường sống lý tưởng của sâm cau là dưới bóng râm, ưa ẩm ở các thung lũng, nơi đất màu mỡ, chân núi đá vôi hoặc ven rẫy,
Theo KS Ngọc, loại dược liệu này đã được sử dụng làm thuốc từ rất sớm. Trong y học cổ truyền, thân rễ sâm cau dùng trị suy nhược cơ thể, đau lưng, viêm khớp, viêm thận mãn tính, điều kinh và tăng cường sinh lực… Tại Ấn Độ, Nepal và Philippin, thân rễ sâm cau được dùng làm thuốc lợi tiểu và kích dục, chữa bệnh ngoài da, loét dạ dày tá tràng, trĩ, lậu…
Đối với y học hiện đại, có nhiều nghiên cứu công bố về định tính và định lượng ở sâm cau có sự hiện diện của nhiều chất hữu cơ quan trọng trong y dược học, như: Các lớp lignin, phenolic, saponin, steroid, các acid béo… giúp bảo vệ gan thỏ, chống oxy hóa, khôi phục tế bào, chống ung thư…
Cụ thể, hoạt chất curculignin A và curculigol có tác dụng bảo vệ gan thỏ dưới độc tố rifampicin, thioacetamide và galactosomin bảo vệ gan chuột dưới tác động của carcon tetrachloride.
Curculigosaponin A và F chiết tách từ thân rễ Sâm cau kích thích tăng sinh tế bào lympho ở lá lách chuột, curculigosaponin G làm tăng trọng lượng tuyến ức để điều hòa miễn dịch.
Các hợp chất phenol và phenolic glycoside có tác dụng chống oxy hóa, giúp khôi phục các tế bào nội mô mạch máu dây rốn người bị tổn thương do các gốc tự do từ H2O2; chống loãng xương bằng cách làm tăng số lượng tế bào tạo xương, tăng cường tổng hợp protein và collagen type I ở xương… Các hợp chất polysaccharide từ sâm cau thể hiện tác dụng chống ung thư rõ rệt trên khối u ác tính tử cung ở chuột thử nghiệm, tăng cường đáng kể chức năng miễn dịch.
Bà Nguyễn Thị Huệ, Phó Giám đốc Trung tâm Ươm tạo doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao, đánh giá nghiên cứu cho kết quả khả thi, mang lại giá trị kinh tế và xã hội. Trong thời gian tới, đơn vị sẽ triển khai thực hiện mô hình nhằm phục vụ cho các buổi tham quan, học tập và sẵn sàng chuyển giao kỹ thuật này cho tổ chức hay cá nhân có nhu cầu.