Theo các chuyên gia quá trình chạy thận nhân tao vẫn tồn tại những tai biến nhất định. Tuy nhiên, việc 18 người đồng loạt bị sốc phản vệ khiến 7 bệnh nhân tử vong tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hòa Bình là tai biến nghiêm trọng của y khoa.
Sốc phản vệ - tai biến nguy hiểm nhất
TS.BS Trương Hồng Sơn, Viện trưởng Viện Y học ứng dụng Việt Nam, chia sẻ sốc phản vệ có thể xảy ra khi chạy thận được gọi là phản ứng màng lọc. Đây là một nhóm lớn các biến cố bao gồm cả các phản ứng phản vệ lẫn các phản ứng không rõ ràng, có nguyên nhân chưa rõ. Có hai loại, loại phản vệ (loại A) và loại không đặc hiệu (B).
Triệu chứng của loại A là bệnh nhân khó thở, nóng tại vùng tiếp cận mạch máu hoặc khắp cơ thể. Nếu diễn biến xấu bệnh nhân có thể ngưng tim và tử vong. Những trường hợp nhẹ có thể ngứa ngáy, nổi mề đay, ho, chảy nước mũi, nước mắt, đau quặn bụng.
Các triệu chứng này thường xuyết hiện trong vòng vài phút đến 30 phút sau chạy thận. Nguyên nhân của phản ứng loại A có thể là dị ứng với ethylene oxide (dùng để tiệt trùng màng lọc khi chạy thận); dịch lọc nhiễm bẩn; sử dụng lại màng lọc; việc sử dụng heparin (heparin được sử dụng trong quá trình chạy thận để ngăn ngừa tình trạng đông máu); tăng eosinophile máu. Khi xảy ra những hiện tượng trên, các bác sĩ cần ngưng chạy thận.
Các triệu chứng chính của phản ứng loại B là đau ngực, thường xuất hiện sau 20-40 phút chạy thận. Phản ứng B ít nguy hiểm hơn loại A rất nhiều. Bệnh nhân gặp phải phản ứng này vẫn tiếp tục được chạy thận và cho thở oxy.
“Sốc phản vệ nói chung đều nguy hiểm bởi khi đã xảy ra, diễn tiến sẽ rất nhanh trong vòng 1-2 phút và chuyển sang trạng thái nguy kịch, lúc này rất khó để đảo ngược tình huống, có thể gây tử vong. Do vậy, khi phản ứng này xảy ra, bác sĩ cần được xử trí ngay”, TS Sơn lưu ý.
Sốc phản vệ có thể khiến bệnh nhân tử vong ngay lập tức. Ảnh: Momjunction.
Bệnh nhân chạy thận cần lưu ý gì?
Theo TS.BS Trương Hồng Sơn, tai biến thường gặp nhất bệnh nhân chạy thận dễ gặp phải là tụt huyết áp (20-30%), chuột rút (5-20%), buồn nôn và nôn (5-15%), nhức đầu (5%), đau ngực (2-5%), ngứa (5%) và sốt ớn lạnh (<1%). Trong số đó, tụt huyết áp là tai biến thường gặp khi chạy thận. Đặc biệt là khi bệnh nhân mắc tiểu đường.
Đối với bệnh nhân thường xuyên bị chuột rút trong quá trình chạy thận, bác sĩ có thể giảm tình trạng này bằng cách điều chỉnh lượng nước và điện giải của cơ thể giữa các lần thực hiện thủ thuật.
“Những biến chứng nghiêm trọng như rối loạn nhịp tim, chèn ép tim, xuất huyết nội sọ, co giật, tán huyết và thuyên tắc khí, phản ứng dị ứng, hội chứng mất cân bằng thường ít gặp”, TS Sơn nói.
Để quá trình chạy thận có kết quả tốt, TS Sơn khuyến cáo bệnh nhân cần vào chạy thận đúng ngày và giờ, tuân thủ chỉ định của bác sĩ. Sau khi hoàn thành thời gian điều trị, bênh nhân cần ở lại cơ sở y tế đủ lâu để được theo dõi toàn diện.
Người bệnh cần lưu ý chế độ ăn trước khi chạy thận như tránh dùng những thực phẩm khiến cơ thể tích nước, chứa nhiều kali, phốt pho, muối.
“Người bệnh không nên uống quá nhiều nước vì có thể gây hiện tượng tăng cân, phù, thay đổi huyết áp, tạo gánh nặng cho tim, khó thở. Khi tính toán lượng nước tiêu thụ trong ngày, bệnh nhân cần tính lượng nước trong các loại thực phẩm như súp, kem, hoa quả, hạn chế tiêu thụ muối (dưới 5 g muối/ngày), bổ sung đủ protein và năng lượng để duy trì sức khỏe”, TS Sơn tư vấn.