Bánh chưng, bánh tét
Là món bánh duy nhất có lịch sử lâu đời trong văn hóa ẩm thực Việt Nam. Bánh chưng tượng trưng cho mặt đất là loại bánh mà hoàng tử Lang Liêu đời Vua Hùng thứ 16 đã sáng tạo ra nhằm thể hiện lòng biết ơn với cha ông và đất trời xứ sở.
Nguyên liệu chính làm nên chiếc bánh chưng chính là gạo nếp như nhấn mạnh tầm quan trọng của cây lúa và thiên nhiên trong nền văn hóa lúa nước.
Ngoài ra còn có đậu xanh, thịt lợn, lá dong được gói ghém vuông vức và đem luộc chín. Bánh rất thơm, mềm và xanh ngắt màu xanh của lá.
Ở miền Nam và miền Trung thì có loại bánh tét, với các nguyên liệu giống như bánh chưng ở miền Bắc.
Bánh chưng, bánh tét không thể vắng mặt trong ngày đầu năm
Ô mai, mứt Tết
Ngày Tết, đến thăm bất kỳ gia đình Việt nào cũng bắt gặp hình ảnh hộp bánh mứt, ô mai đặt trang trọng trên bàn uống nước.
Trước là để đãi khách đến chơi nhà, sau là để cả gia đình quây quần bên nhau cùng thưởng thức. Nhiều loại bánh mứt được bày trên cùng một khay còn hàm ý mong muốn sự sum vầy, hòa hợp đoàn viên.
Trong ngày Tết cổ truyền, mứt Tết cũng là món ăn không thể thiếu, góp phần làm nên hương vị ngày xuân
Ô mai cũng là một thứ quà kết tinh từ biết bao sản vật của đất trời như quả tươi trên rừng, muối mặn nơi biển cả… kết hợp với sự khéo léo của những bàn tay lao động.
Quả ô mai nhỏ nhưng chứa cả vị chua, cay, mặn, ngọt… mang ý nghĩa tiễn biệt nỗi buồn và chào đón niềm vui trong khoảnh khắc giao thừa.
Nhâm nhi miếng ô mai, mứt Tết cùng tách trà nóng không chỉ là thú vui đầu xuân mà còn là hình ảnh mang giá trị truyền thống của các gia đình Việt.
Dưa hành
Cùng với thịt mỡ và bánh chưng, dưa hành là một trong những món ăn không thể thiếu trong ngày Tết
Người xưa có câu “Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ / Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”. Ẩm thực người Việt luôn coi trọng sự hài hòa, cân bằng trong hương vị, vì thế đi kèm với sự đậm đà, ngầy ngậy của bánh chưng, thịt mỡ…không thể thiếu món dưa hành thanh mát, chua cay.
Trước đây, cuộc sống còn nghèo đói, người ta chỉ cần cặp bánh chưng và hũ dưa hành là bữa ăn đã mang hương vị Tết.
Giờ đây, cuộc sống đã đủ đầy nhưng không phải vì thế mà người Việt quên đi món ăn tình nghĩa ngày nào. Bên cạnh nhiều món sơn hào hải vị vẫn còn đó bát dưa hành thơm thảo do chính tay mẹ tự muối.
Việc nêm nếm sẽ có sự khác nhau giữa các vùng miền: người Nam nêm đường, người Bắc nêm ớt… cốt làm sao tạo sự hài hào, vừa vặn với mâm cơm.
Giò nạc, giò thủ
Đĩa giò, đĩa chả luôn giữ vị trí mỹ vị và đã trở thành món ăn chắc chắc phải có trong mâm cỗ Tết
Đối với người Việt Nam, trong mâm cỗ ngày Tết từ xưa đến nay, đĩa giò, đĩa chả luôn giữ vị trí mỹ vị và đã trở thành món ăn chắc chắc phải có.
Giò là thịt giã trong cối đá cho thật nhuyễn, gói lá chuối thành hình ống, buộc lạt giang, rồi mang luộc, nhưng hấp thì giò ngon hơn.
Giò thái theo khoanh, trắng mịn, bày lên đĩa, phải sắt giò cho gọn, trông đẹp mắt và dễ gắp. Khoanh giò trắng mịn, có vài lỗ nhỏ bằng hạt gạo do nước thoát ra thành bọt khi hấp, đó là giò lụa, làm bằng thịt heo (người Bắc gọi là thịt lợn). Nếu dùng thịt bò làm nguyên liệu thì gọi tên là giò bò hay chả bò.
Giò dùng thịt đầu heo thì gọi là giò thủ. Giò thủ bao gồm: tai heo, thịt thủ, không giã mà thái nhỏ, trộn thêm mộc nhĩ (nấm mèo), nước mắm, hạt tiêu rồi xào chín (xào là chiên trong chảo, giữ lửa cho đều và đảo luôn tay).
Xong, gói bằng lá chuối tươi, buộc lạt cho chặt rồi luộc hoặc hấp cách thủy. Khi giò chín, vớt ra rồi ép, dùng 4 thanh tre nẹp quanh khoanh giò, cột cho chặt, treo trên bếp. Khi ăn cũng thái như giò lụa.